Thầy luôn là tấm gương của sự hoàn thiện bản thân. Thầy đã dạy chị em chúng tôi bằng khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Thầy đã gia trì những hạnh lành đức tốt vào tâm chúng tôi, giúp chúng tôi ngày càng giống Phật và gần Phật hơn.
Tôi đã được cùng Thầy tôi tham dự lễ Sakyadhita lần thứ 11 tại chùa Phổ Quang (Q. Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh) suốt một tuần. Sau buổi lễ khai mạc trang trọng là thời gian đọc tham luận và thào luận. Tôi chú ý lắng nghe những bài tham luận của chư Tôn đức Ni cũng như nữ Phật tử, các nhà trí thức. Những bài tham luận như những hồi trống báo hiệu cho nhân gian được nghe và thấy tiếng nói, việc làm của những người con gái Đức Phật vừa tự tu tập để hoàn thiện bản thân, vừa góp phần làm lợi ích cho đời. Tôi liên tưởng ngay đến Thầy tôi – Ni trưởng thượng Huệ hạ Giác mà chúng tôi, những đệ tử xuất gia và tại gia thường hay gọi Ngài bằng hai tiếng “Ông Già” đầy thân thương và quý kính.
Hai tiếng “Ông Già” khiến cho chúng tôi khi đến gần Thầy đều thấy mình như những đức con thơ được gần người cha thân thương. Bác sĩ Nguyễn Ngọc Chiếu – Viện trưởng Viện Tim TP. Hồ Chí Minh đã đến với Thầy quy y, lập hạnh tu cư gia trường chay niệm Phật gần 30 năm nay. Ông được Thầy đặt Pháp danh là Minh Lý. Khi lần đầu tiên gặp Thầy, ông nói: “Phải chi con được gặp Già sớm hơn, con không phải phung phí cuộc đời”. Bác sĩ đã làm bài thơ về Thầy như sau:
Kính dâng Thầy ngày con về thăm núi
Thương lá bay qua rừng vắng vẻ
Núi còn thiền định đến hôm nay
Nhớ phụ từ con về lặng lẽ
Thả phong trần như tĩnh như say
Bên dốc núi dừng chân đứng lại
Muôn sắc hoa mờ như khói sương
Con quyết theo Thầy con mãi mãi
Thuyền sang sông lặng sóng vô thường
Đường về núi đá chập chùng xa
Đào hoa phai sắc tiếc xuân qua
Nghe cả non xanh về tĩnh tịch
Con về đảnh lễ Phật Di Đà.
Phải nói chúng tôi còn có Tổ đình Linh Sơn ở núi Dinh, do trước ngày giải phóng bị bom đạn hư sập hoàn toàn, tất cả chư Tăng Ni và các em cô nhi phải tản cư về miếng đất trống được cúng dường tại phường Bửu Hòa, Thành phố Biên Hòa để thành lập Quan Âm Tu viện ngày nay. Hiện tại, Tổ đình Linh Sơn được Thầy xây dựng lại khang trang, đường lên núi giờ đây được xây thành bậc thang, sự đi lại được dễ dàng hơn. Ngoài việc xây dựng lại Tổ đình Linh Sơn, Thầy còn trùng tu chùa Nhứt Nguyên Bửu, nơi hàng năm mở khóa niệm Phật “Bá nhựt trì danh” hiệu Đức Phật A Di Đà, rồi đến chùa Thành An ở núi Sập (An Giang) – nơi Đức Sư Tổ thượng Bửu hạ Đức khi còn tại thế trụ ở nơi đây và chùa Chiên Đàn Hương ở Di Linh, chùa An Hòa ở Thủ Thừa cùng một số chùa khác đã xây cất rồi hoặc đang liên tục thi công trong tông môn chúng tôi. Thầy đã không ngại gian nan khó khổ, chẳng những giữ vững mà còn mở mang tốt đẹp thêm sự nghiệp của Sư ông thượng Thiện hạ Phước chúng tôi để lại. Thầy là tấm gương sáng về tinh thần “tôn sư trọng đạo”, “uống nước nhớ nguồn” để soi bước cho chúng tôi.
Thầy cũng ủng hộ rất nhiều nhà tình thương và xây cầu… Tuy hai chân Thầy hơi yếu, nhưng vẫn thường đi làm từ thiện ở những tỉnh xa miền duyên hải và Tây Nguyên khi có lũ lụt. Thầy dạy chúng tôi khi cho quà quan trọng nhất là cách cho. Nhiều khi thấy Thầy bê gạo trao cho nhiều người, sợ Thầy lớn tuổi bị mệt, chúng tôi xin phép giúp cho Thầy đỡ nhọc, nhưng Thầy không chịu. Chỉ đến khi mệt quá Thầy mới để chúng tôi tiếp tay. Thầy muốn làm gương cho chị em chúng tôi làm việc gì cũng không nên có tánh “quan liêu” và nhất là bệnh lười.
Một ngày, Thầy gọi tôi cười và nói rằng có một ông già nọ thấy bài hát Em niệm hồng danh của Thầy. Thầy làm rất nhiều bài thơ và bài hát, thường những bài hát được từ thơ phổ thành nhạc, trong đó có bài Em niệm hồng danh, Thầy hát một cách thích thú hồn nhiên. Rồi Thầy bảo tôi khi nào vào giảng Bát quan trai thì cho các nam nữ Phật tử hát bài này. Nguyên vì chúng tôi theo tông Tịnh độ, chuyên niệm Phật. Ngoài những bài giảng khuyên niệm Phật, Thầy có sáng tác bài hát Em niệm hồng danh. Ai hát bài này dù có lớn tuổi mấy đi nữa cũng thấy mình như trẻ thơ vui tươi hồn nhiên hát niệm Phật. Thấy đã tìm đủ phương tiện khuyên nhắc chúng tôi đi, đứng, nằm, ngồi nhớ niệm Phật đừng quên. Thật là một đại duyên phước. Bài hát Em niệm hồng danh như sau:
Ban mai em niệm hồng danh
Hòa theo nắng sớm trong lành tâm em
Nắng trưa em niệm hồng danh
Tâm tư lắng đọng tịnh thanh vô cùng
Trời chiều em niệm hồng danh
Tà dương xế bóng định tâm biết rồi
Đêm dài em niệm hồng danh
Phá tan u ám tánh mê kiếp người
Tứ thời em niệm hồng danh
Diệt bao nghiệp ác ý thân khẩu mình
Ôi, câu hồng danh diệu mầu cao thâm
Hồng danh là bạn tri âm
Đi, đứng, nằm, ngồi thì thầm nhớ niệm
Niệm niệm bất ly thân
Niệm niệm bất ly tâm
Hồng danh thâm trầm vô sanh bất diệt
Chính Phật tại tâm còm tầm đâu xa
Nam mô A Di Đà Phật!
Đặc biệt khi tham dự những buổi họp của Giáo hội hay của nhà nước, Thầy vẫn chăm chú lắng nghe nhưng rất ít khi phát biểu. Những lần cuối năm, khi cùng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai đi chúc Tết chính quyền tỉnh cũng vậy, Thầy vẫn chăm chỉ đi mà không nói gì. Năm rồi, sau khi ở phòng khách Tỉnh ủy ra về, bà Bùi Ngọc Thanh – Trưởng Ban Dân vận đã nắm
Thật vậy, Thầy luôn là tấm gương của sự hoàn thiện bản thân. Thầy đã dạy chị em chúng tôi bằng khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Thầy đã gia trì những hạnh lành đức tốt vào tâm chúng tôi, giúp chúng tôi ngày càng giống Phật và gần Phật hơn. Thật là:
Ơn giáo dưỡng một đời nên huệ mạng
Nghĩa ân sư muôn kiếp khó đáp đền.
Ngài Milarepa, một vị Tổ của Mật Tông đã tri ân Thầy là Marpa:
Con không có tài sản và quà cáp để dâng
Sự tu tập của con đến đáp công ơn Sư phụ
Con thực hành pháp dõng mãnh không kể gian nan
Đấy là quà con dâng hiến bậc Thầy như cha lành.
Đúng vậy, tri ân và báo ân Thầy đâu phải chỉ có dâng cúng dường những món quà, mà phải chuyên tâm thực hành những lời dạy của Thầy. Thầy đã cho chúng tôi quá nhiều ân huệ. Riêng tôi tự nghĩ, Thầy chính là “đóa sen thắm” trong lòng tôi. Tôi nguyện khắc cốt ghi tâm những lời Thầy dạy và cố gắng thực hành những lời dạy của Thầy.
Ai tỉnh? Ai mê? Ai gọi tỉnh?
Ai sầu? Ai khổ nhớ thương ai?
Sáu chữ Di Đà con niệm mãi
Nhớ lời Thầy dạy, nhớ không sai.
Thích Nữ Kim Sơn