Skip to content Skip to sidebar Skip to footer

Đại đức Maha Pala đã rất kiên trì và quyết tâm thực hiện lời phát nguyện của mình. Giáo pháp của đức Giác Ngộ mới thật sự đáng quý trọng hơn hết. Cho dù đôi mắt của Đại đức có hư hoại thì Đại đức vẫn chấp nhận, vẫn quyết tâm không nằm để nhỏ mũi cho lành bệnh.

Thuở nhỏ, trưởng lão Cakkhupala sinh ra tại thành Savatthi (Xá Vệ). Trưởng lão là con của một bậc hào phú tên là Mahasuvanna (Đại Kim), người này có gia tài đồ sộ nhưng lại hiếm muộn con cái. Sau khi cầu nguyện dưới một cây đại thọ, xây tường rào vòng quanh, dọn sạch sẽ gốc cây và cho trải cát bên trong, ông liền khấn vái rằng: “Xin cho tôi có một đứa con, dầu trai hay gái tôi cũng sẽ làm đại lễ cúng tế tôn thần”. Không bao lâu, vợ ông có thai và lần lượt sinh được hai người con. Đứa lớn tên là Maha Pala (Đại Hộ), đứa nhỏ tên là Culla Pala (Tiểu Hộ). Ông tin rằng, nhờ việc bảo hộ cây rừng mà vợ chồng ông mới được hai đứa con cầu tự.

dai-duc-maha-pala

Sau khi hai trẻ lớn khôn thì cha mẹ lần lượt qua đời, và tất cả gia sản được chia đều cho hai anh em. Thuở ấy, thành Savatthi rất phồn thịnh và đông đúc. Sau khi nghe đức Thế Tôn thuyết pháp, phần lớn cư sĩ nhập vào dòng Thánh đạo, chứng bậc Thanh văn. Chư Thánh Thanh văn cư sĩ có hai phận sự: buổi sáng lo cúng dường vật thực cho chư Tăng, buổi chiều thì chuẩn bị lễ vật để đi nghe pháp. Khi đi, các vị ấy cầm hương hoa trên tay và dắt theo người để mang vải hoặc y, thuốc ngừa bệnh, nước giải khát.

Một hôm, trưởng giả Maha Pala trông thấy các Thánh Thanh văn cư sĩ đi đến Tịnh xá, trên tay có cầm hương hoa nên bèn hỏi: “Hàng đại chúng đi đâu mà đông vậy?”. Có tiếng trả lời rằng: “Đi nghe thuyết pháp”. Sau đó, trưởng giả xin nhập theo đoàn người đi Tịnh xá. Đến nơi, trưởng giả đảnh lễ đức Bổn Sư rồi ngồi xuống một nơi sau cùng.

Trước khi thuyết pháp, đức Phật luôn quán xét căn cơ và trình độ thính chúng, rồi mới tùy nhân duyên mà giảng giải. Sau khi quán xét căn cơ và trình độ của trưởng giả Maha Pala, đức Bổn Sư đã thuyết bài pháp Tuần Tự Pháp Thoại (Anupubbikatha), nghĩa là đức Phật lần lượt giảng giải liên tục về năm pháp kế tiếp nhau, từ bố thí, trì giới, các nhàn cảnh, tội ngũ trần và phước báu của bậc xuất gia.

Ngồi yên nghe thuyết pháp, trưởng giả Maha Pala thầm nghĩ: “Khi mình lìa đời đi sang thế giới bên kia thì con trai, con gái chẳng theo mình, nhà cửa ruộng vườn cũng đều bỏ lại, thậm chí xác thân cũng không còn làm bạn đồng hành, nào có ích chi mà ta mải miết đeo mang gánh nặng gia đình. Ta phải xuất gia mới được”. Đợi dứt thời pháp thoại, trưởng giả đến gần đức Bổn Sư và ngỏ lời cầu xin xuất gia nhập đạo. Do ông còn một người em trai nên đức Phật bảo ông về nhà từ giã em trai. Khi về nhà, trưởng giả gọi người em trai là Culla Pala đến và bảo: “Em à, tất cả tài sản hữu thức và vô thức gồm có tôi tớ, súc vật, động sản, bất động sản trong nhà này, anh giao hết cho em trọn quyền làm chủ”. Người em thắc mắc: “Còn anh thì sao”. Trưởng lão Maha Pala nói rằng: “Anh sẽ xuất gia với đức Tôn Sư”.

– Anh ơi, sao anh nói chi lời ấy. Từ khi thân mẫu từ trần thì em cậy nhờ chỗ anh thay vào chỗ mẹ. Đến khi thân phụ quá cố thì em cũng nhờ nơi anh thế chỗ của cha. Vả lại, anh là một bậc phú gia, tiền của thừa thải. Anh cứ ở nhà làm việc phước đức cũng được, hà tất gì anh phải xuất gia như vậy.

– Em ơi! Anh vừa được nghe chánh pháp của đức Tôn Sư. Ngài đã thuyết một thời pháp tuyệt diệu cả đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối, giải rằng ba tướng mong manh là vô ngã, vô thường, khổ, khiến cho anh nghe qua ngán ngẩm sự đời, muốn xuất gia để kiện toàn đạo hạnh.

– Thưa anh, hiện giờ anh vẫn là thanh niên tráng kiện. Xin hãy nán lại chờ khi già cả rồi hãy xuất gia.

– Em à, con người khi già nua thì chắc chắn chân tay không còn tự chủ, không thể điều khiển theo ý muốn của mình. Chính ngay bản thân mình hãy còn như vậy huống hồ là thân bằng quyến thuộc. Bởi thế, anh sẽ đi ngay bây giờ để thực hành đầy đủ giới hạnh của bậc Sa-môn.

Người anh liền nói bài kệ:

“Tuổi già làm suy yếu

Tay chân khó dạy bảo

Người lực kiệt sức cùng

Lấy chi hành pháp diệu”.

Nói dứt xong bài kệ, trưởng giả Maha Pala bỏ mặc người em kêu gào than khóc, dứt tình ra đi đến chỗ đức Bổn Sư đang ngự, và xin xuất gia nhập đạo nơi Ngài.

Qua trên, ta thấy trưởng giả Maha Pala dù nhà cửa đầy đủ vật chất, giàu sang phú quý, nhưng nhờ có đủ nhân duyên nghe một lần thuyết pháp của đức Thế Tôn mà đã hiểu rõ được thế nào là vô ngã, vô thường và khổ. Nhờ sự giác ngộ này mà trưởng giả Maha Pala đã đoạn được tình cảm gia đình, quyết chí xuất gia nhập đạo nơi đức Tôn Sư. Điều này cho thấy, sự xuất gia của trưởng giả Maha Pala bắt nguồn từ sự hiểu biết, bắt nguồn từ trí tuệ chứ không phải do hoàn cảnh khổ đau như thất tình, bị phạm tội, thiếu ăn thiếu mặc. Một bài học cũng được rút ra, đó là người xuất gia nên xuất gia lúc còn trẻ tuổi, khỏe mạnh thì sẽ có nhiều thời gian để học và thực hành Phật pháp.

Sau khi xuất gia, trưởng giả Maha Pala đã thọ cụ túc giới và phải ở chung cùng các vị Đại đức Tăng để học tập, thu thúc lục căn trong thời gian năm hạ. Đến mãn hạ thứ năm, làm lễ Tự tứ xong, Tỳ-kheo Maha Pala tìm đến đức Bổn Sư đảnh lễ Ngài, rồi bạch hỏi rằng:

– Bạch Thế Tôn, trong giáo pháp của Ngài có bao nhiêu pháp chánh yếu cần phải hành trì?

– Này Tỳ-kheo, chỉ có hai pháp tất yếu mà thôi, đó là pháp học và pháp hành.

– Bạch Ngài, pháp học là sao và pháp hành như thế nào?

– Tùy theo trí tuệ của mình, học hỏi nhuần nhuyễn một hoặc hai bộ kinh hoặc toàn bộ tam tạng kinh điển, ghi chép Phật ngôn. Sau khi đã thuộc lòng, đem ra đọc tụng, thuyết giảng để giáo hóa chúng sanh, đó gọi là pháp học (Ganthadhura).

– Còn như cam chịu cảnh sống thanh bần đạm bạc, vui thích ở nơi vắng vẻ hẻo lánh, ngày đêm hằng nhớ tưởng đến tính chất vô thường sinh diệt của bản ngã, rồi bền chí kiên gan, hành thiền đắc tuệ minh sát để dứt trừ phiền não, chứng bậc Vô sanh, đó gọi là pháp hành (Vipassanadhura).

– Bạch Thế Tôn! Nay đệ tử là kẻ cao niên xuất gia, không kham nổi việc theo đuổi pháp học cho đến ngày thành tựu hoàn toàn, còn pháp hành thì đệ tử có thể làm cho có kết quả mỹ mãn được. Xin Thế Tôn chỉ dạy đề mục cho đệ tử.

Thể theo lời thỉnh cầu của Tỳ-kheo Maha Pala, đức Bổn Sư đã truyền dạy cho Thầy ấy một đề mục để niệm cho đắc quả Vô sanh (A-la-hán).

Sau khi đảnh lễ tạ từ đức Tôn Sư, Tỳ-kheo Maha Pala tìm được 60 vị Tỳ-kheo làm bạn đồng tu, rồi cùng nhau cất bước đi hành đạo. Các Tỳ-kheo đi được quãng đường 120 do-tuần thì đến một thị trấn nhỏ sát biên giới, Đại đức Maha Pala hướng dẫn cả đoàn chư Tăng vào đó trì bình bát khất thực.

Dân chúng trông thấy chư vị Tỳ-kheo đầy đủ oai nghi tế hạnh, nên phát sanh lòng ngưỡng mộ. Họ bảo nhau sắp đặt chỗ ngồi, thỉnh chư Tăng an tọa rồi dâng cúng vật thực ngon lành, sau mới hỏi rằng:

– Bạch chư Đại đức, chẳng hay các Ngài định đi đâu vậy?

– Chư thiện nam! Chúng tôi đi tìm một chỗ tiện nghi thuận cảnh.

Nghe đáp như vậy, những vị trí thức trong nhóm người ấy tự nhiên hiểu biết chư Tăng đang cần có chỗ để an cư kiết hạ. Họ bèn thỉnh khéo rằng:

– Bạch Đại đức, nếu quý Ngài có thể lưu lại đây nhập hạ ba tháng này, thì rất tiện bề chúng tôi có được chỗ nương nhờ vững chắc để thọ trì Tam quy Ngũ giới.

Chư Tăng cùng nghĩ: “Chúng ta nương nhờ các gia tộc này giúp đỡ may ra có thể tu hành thoát ly ba cõi được chăng?”. Thế nên, quý Ngài nhận lời cầu thỉnh.

Nhóm người ấy, sau khi được sự chấp nhận của chư Tăng, liền khởi công xây dựng một Tịnh xá, kiến tạo các cơ sở cần thiết để chư Tăng tùy nghi sử dụng trong lúc ban ngày hoặc ban đêm, rồi dâng cúng tất cả đến chư Tăng. Chư Tăng chỉ còn việc là hằng ngày ôm bát vào thị trấn nhỏ để khất thực.

Qua trên, ta thấy rằng, vào thời đức Phật, các vị Tỳ-kheo mới thọ giới bắt buộc phải ở chung cùng các vị Đại đức Tăng để học tập, thu thúc lục căn trong thời gian năm hạ đầu. Điều này giúp cho các vị Tỳ-kheo vững chãi hơn trong việc tu học về sau. Nhân đây, ta cũng biết được rằng, giáo pháp của đức Phật chỉ có hai pháp tất yếu là pháp học và pháp hành. Những người lớn tuổi xuất gia, thường không kham nổi việc theo đuổi pháp học cho đến ngày thành tựu hoàn toàn, mà chỉ có thể thực hành pháp hành để cho có kết quả tốt đẹp. Vào thời đức Phật, việc xây dựng cúng dường Tịnh xá và các vật dụng cần thiết, đã có các vị cư sĩ giúp đỡ. Chư Tăng chỉ có việc ôm bát vào làng khất thực và tu học Phật pháp. Vì vậy, việc tu học được dễ bề thành tựu.

Trong ba tháng an cư kiết hạ tại ngôi làng sát biên giới này, thì vào cuối tháng thứ nhất, Đại đức Maha Pala cảm thấy đôi mắt xốn xang vì ít ngủ. Qua tháng thứ hai, Đại đức bị đau mắt thật sự. Tuy vậy, Đại đức vẫn tiếp tục hành thiền minh sát cả đêm thâu, mãi cho đến lúc mặt trời sắp rạng, Đại đức mới vào ngồi trong tịnh thất để nghỉ ngơi. Do vì Đại đức phát nguyện sẽ giữ gìn ba oai nghi, nên Đại đức đã không hề đặt lưng nằm xuống ngủ trong ba tháng hạ.

Khi phát hiện Đại đức Maha Pala bị đau mắt, các Thầy Tỳ-kheo đã mời một vị y sĩ đến để chữa bệnh. Vị y sĩ gởi cho Đại đức một loại thuốc chỉ nhỏ một lần vào mũi là sẽ hết đau mắt, nhưng Đại đức Maha Pala do phát nguyện giữ ba oai nghi nên không chịu nằm xuống để nhỏ mũi. Mặc dù vị y sĩ đã khẩn khoản yêu cầu: “Bạch Đại đức, xin Đại đức đừng làm như vậy không nên. Một bậc Sa-môn cũng cần gìn giữ sức khỏe để hành đạo. Đại đức nằm xuống để nhỏ thuốc cho có hiệu quả”.

Lát sau, Đại đức mới đáp: “Thôi hiền hữu hãy về đi, để ta bàn tính lại rồi sẽ quyết định”.

Lúc bấy giờ, Đại đức Maha Pala không có gia đình quyến thuộc tại nơi ấy để cùng thảo luận hoặc thăm dò ý kiến. Vì thế, Đại đức tự mình hỏi mình rằng: “Hỡi này Pala hiền hữu, hãy nói cho ta biết, hiền hữu xem đôi nhục nhãn của mình quý trọng hay giáo pháp của đức Giác Ngộ là đáng quý trọng?”.

Và Đại đức cũng tự trả lời câu hỏi của mình như vầy: “Từ đời vô thỉ đến nay, trải qua hằng hà sa số kiếp chìm nổi trôi dạt trong biển luân hồi sanh tử, hiền hữu vẫn sống mãi trong cảnh đui mù tăm tối. Trong khoảng thời gian ấy, không thể đếm kể là bao nhiêu trăm ngàn đức Đại Giác đã thành đạo chứng quả, còn kiến văn tri thức của hiền hữu không đủ để bao trùm thời kỳ của một đức Phật trong số chư Phật quá khứ. Bây giờ, hiền hữu đã phát nguyện trong hạ kỳ này, hiền hữu sẽ ngăn oai nghi nằm suốt ba tháng. Vậy thì dù cho đôi mắt của hiền hữu có đui mù hư hoại đi chăng nữa, thì cũng mặc kệ cho nó đui mù hư hoại. Hiền hữu chỉ cần kiên trì thực hành giáo pháp của đức Đại Giác mà thôi”.

Rồi như để dạy bảo sắc thân mình, Đại đức ngâm lên mấy câu kệ:

“Mắt ta dù có đui mù

Tai ta dù điếc, thân dầu bất an

Trong thân tất cả cơ quan

Dầu tê liệt hết, há màng chi sao!

Hộ ơi! Đừng vịn cớ nào?

Buông lơi mối đạo, lãng xao pháp hành”.

“Mắt ta dầu có quáng manh

Tai ta dầu nặng, thân đành bất an

Trong thân tất cả cơ quan

Dầu hư hoại hết, há màng chi sao!

Hộ ơi! Đừng vịn cớ nào?

Buông lơi mối đạo, lãng xao pháp hành”.

“Mắt ta dầu có tan tành

Tai ta dầu lủng, thân đành bất an

Trong thân tất cả cơ quan

Dầu tiêu tán hết, há màng chi sao!

Hộ ơi! Đừng vịn cớ nào?

Buông lơi mối đạo, lãng xao pháp hành”.

Ngâm dài ba kệ khúc để tự khích lệ mình xong, Đại đức Maha Pala vẫn giữ oai nghi ngồi như trước, lấy thuốc nhỏ lên mũi rồi đi vào làng khất thực. Vị y sĩ trông thấy Ngài bèn hỏi:

– Bạch Đại đức! Hôm nay Đại đức có nhỏ thuốc lên mũi không?

– Có rồi, thiện nam.

– Vậy bây giờ Đại đức thấy thế nào?

– Vẫn còn đau nhức như cũ.

– Sao thế? Đại đức nằm xuống hay cũng vẫn ngồi mà nhỏ thuốc?

Đến đây, Đại đức Maha Pala làm thinh. Dầu cho vị y sĩ có hỏi đi hỏi lại nhiều lần, Ngài cũng chẳng thốt ra một lời để đối đáp. Khi ấy vị y sĩ nói:

– Đại đức đã không cần làm cho mình được tiện nghi thoải mái thì thôi, nhưng mong Đại đức đừng nói với ai là: “Có ông thầy đó đã chế thuốc trị bệnh cho ta, và tôi cũng chẳng nhìn nhận là người đã chế thuốc trị bệnh cho Đại đức”.

Đại đức đáp:

– Ta sẽ không nói thế đâu.

Bị vị y sĩ chạy bệnh không chịu cứu chữa, Đại đức trở về Tịnh xá, lòng tự nhủ rằng: “Này ông Sa-môn ơi! Thầy thuốc đó bỏ rơi ông thì bỏ, chứ ông đừng bỏ rơi hạnh nguyện của mình nhé”.

Ngài lại xướng lên bốn câu kệ:

“Diệu dược vô phương chữa trị rồi

Lương y bất lực cũng đành lui

Giờ đây có nước chờ Diêm Chúa

Hộ hỡi làm sao dám dễ duôi?”.

Sau bài kệ tự huấn ấy, Đại đức thu thúc lục căn, hành Sa-môn pháp một cách rốt ráo. Đến cuối canh giữa đêm ấy, không trước không sau thì hai mắt của Thầy vĩnh biệt ánh sáng, nhưng đồng thời tâm của Ngài cũng đoạn ly tất cả phiền não. Ngài hưởng thụ nguồn an vui tự tại trong sự giác ngộ nội tâm của quả vị A-la-hán, rồi vào ngồi trong tịnh thất.

Đại đức Maha Pala vẫn thường khuyên bảo, nhắc nhở các bạn đồng đạo và chư Tỳ-kheo cũng biết phục thiện, tinh tấn thực hành theo lời chỉ dạy của vị trưởng đoàn một cách rốt ráo. Cho đến hết kỳ Tự tứ thì tất cả sáu mươi vị thiền sư cũng đều đắc quả A-la-hán với tuệ phân tích.

Qua trên, ta thấy được Đại đức Maha Pala đã rất kiên trì và quyết tâm trong việc thực hiện lời phát nguyện của mình. Đối với Đại đức Maha Pala thì giáo pháp của đức Giác Ngộ mới thật sự đáng quý trọng hơn hết. Cho dù đôi mắt của Đại đức có hư hoại thì Đại đức vẫn chấp nhận, vẫn quyết tâm không nằm để nhỏ mũi cho lành bệnh. Do sự giác ngộ hiểu biết về giáo pháp của đức Phật cộng với thiện căn tu hành tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp, mà Đại đức đã có được quyết tâm vững chắc như vậy. Cuối cùng, dù đôi mắt đã mù lòa nhưng Ngài đã đắc quả vị A-la-hán, một kết quả xứng đáng cho sự nỗ lực tu học của Ngài. Đồng thời, sau đó Ngài cũng hướng dẫn cho tất cả ̉̉̉̉̉60 vị thiền sư đồng đạo hạnh cũng đều đắc quả A-la-hán giống như Ngài. Đó là một bài học tuyệt vời về tinh thần dũng cảm trong việc tu học Phật pháp. Đại đức Maha Pala mãi mãi là tấm gương sáng về sự quyết tâm kiên trì trong việc tu học đối với đàn học hậu về sau.

Tâm Duyệt

What's your reaction?
0Cool0Bad0Happy0Sad

Thêm bình luận

VedepPhatgiao.com © 2024. All Rights Reserved.