Skip to content Skip to sidebar Skip to footer

Đức Phật không phải là một nhà chính trị, Ngài không chủ trương kinh bang tế thế, thiết lập quy chế nhà nước, xây dựng hệ thống pháp luật. Đức Phật là Đấng Đạo sư, một nhà đạo đức, khai sáng, đồng thời là một nhà giáo dục đóng góp cho tất cả chúng sinh chứ không giới hạn một quốc gia, dân tộc nào.

Đường hướng và chủ trương của Ngài đặt trên nền tảng đạo đức và khai mở hứ không phải là chính trị, quyền lực và sự khôn ngoan của bản ngã. Mục đích duy nhất của Ngài là mang lại an lạc hạnh phúc cho tất cả chúng sinh. Đối với các nhà lãnh đạo quốc gia quản trị đất nước, những lời dạy của Ngài giúp họ đem lại hạnh phúc, thái hòa cho dân chúng. 

Thuật lãnh đạo, hay còn gọi là lãnh đạo trong chánh niệm theo Phật pháp sẽ giúp khai mở một con đường vững mạnh.

Trong kinh Tăng chi bộ I (chương Bốn pháp, phẩm Nghiệp công đức), Đức Phật đã nêu lên vai trò của người lãnh đạo một tổ chức hay một quốc gia như sau: 

“Khi đàn bò lội sông

Đầu đàn đi sai lạc

Cả đàn đều đi sai

Vì hướng dẫn sai lạc

Cũng vậy, trong loài người

Vị được xem tối thắng

Nếu sở hành phi pháp

Còn nói gì người khác

Cả nước bị đau khổ

Nếu vua sống phi pháp

Khi đàn bò lội sông

Đầu đàn đi đúng hướng

Cả đàn đều đúng hướng

Vì hướng dẫn đúng đường

Cũng vậy trong loài người

Vị được xem tối thắng

Nếu sở hành đúng pháp

Còn nói gì người khác

Cả nước được an vui

Nếu vua sống đúng pháp”. 

Bài kệ cho thấy vai trò người lãnh đạo là làm gương và dẫn dắt. Nếu lãnh đạo là người có tài năng và đạo đức, đưa ra những đường lối, chủ trương tích cực, đúng hướng, có lợi ích cho nước cho dân thì mọi người nhờ đó mà có cuộc sống an vui hạnh phúc, đất nước đó ngày càng thịnh vượng, thái bình. Nhưng ngược lại, nếu lãnh đạo có “sở hành phi pháp” (không có khả năng và tư cách đạo đức lãnh đạo), chỉ đạo sai lạc thì chắc chắn kéo theo vô số điều tiêu cực, hệ lụy. (Xem thêm Tiểu bộ kinh, tập 6, phần Khuyến dụ quốc vương).

Trong kinh Tiểu bộ I (kinh Tập, Cánh cửa bại vong), Đức Phật cho biết nếu người lãnh đạo, có quyền thế nhưng nếu phẩm chất đạo đức kém sẽ đưa chính họ và những người khác vào cánh cửa bại vong: 

“Đàn bà hay đàn ông

Rượu chè, tiêu hoang phí

Được địa vị, quyền thế

Là cửa vào bại vong”,

“Người tự hào gia thế

Về tài sản, dòng họ

Khinh miệt những người khác

Là cửa vào bại vong”.

Kinh Tiểu bộ (Chuyện Đại vương Janasandha), Đức Phật dạy: “Một vị vua phải trị vì sáng suốt; trong mọi phận sự của một vị vua, đối với thần dân như cha mẹ đối với con, từ bỏ mọi việc làm ác. Khi một vị vua chân chính, bầy tôi cũng chân chính noi gương”.

Trong kinh Tiểu bộ (Chuyện hiếu tử Sàma), Đức Phật dạy về 10 bổn phận mà một vị vua anh minh hiền đức cần phải làm (cũng được xem như Thập vương pháp). Nếu làm tốt, vị vua không những lãnh đạo tốt đất nước của mình mà còn được sinh về cõi Trời sau khi chết. Đó là:

1-Bổn phận đối với cha mẹ;

2-Bổn phận đối với vợ con;

3-Bổn phận đối với thân bằng quyến thuộc;

4-Bổn phận đối với quần thần;

5-Bổn phận đối với binh sĩ;

6-Bổn phận đối với công chức; quan tâm đến các cơ quan chính quyền và đời sống nhân dân;

7-Bổn phận đối với những người tùy tùng thân cận;

8-Bổn phận đối với những bậc tu hành thanh tịnh, đạo cao đức trọng, các nhân sĩ, hiền tài;

9-Bổn phận đối với các bậc ẩn sĩ, tài đức mà mai danh ẩn tích (biết tôn kính, hỗ trợ và mời họ giúp dân giúp nước, thưa hỏi việc nước);

10-Biết yêu thương, bảo vệ loài vật, môi trường sinh thái.

Trong kinh Trường bộ II (Chuyển luân thánh vương sư tử hống, số 26), Đức Phật cũng dạy thêm:

Không phải ai cũng có chí hướng cao thượng về đời sống tâm linh đưa đến giác ngộ, giải thoát, cho nên tùy căn cơ trình độ mà Đức Phật nói pháp, trong đó có các pháp mang lại an lạc cho đời sống thế tục trong hiện tại và tương lai. Vì thế khi có vị lãnh đạo quốc gia nào xin ý kiến về các vấn đề xã hội, quốc gia, Đức Phật cũng nêu lên quan điểm của mình về chính sách trị quốc an dân và giải quyết các vấn đề xã hội. Ngài xem đó là dịp để các nhà đạo đức, tâm linh, các nhà giáo dục góp phần mang lại an lạc, hạnh phúc cho người dân ở một phương diện khác.

Tuy không phải là một nhà chính trị, không phải là một nhà xã hội học nhưng cái nhìn của Đức Phật hết sức sáng suốt và thấu đáo, ý kiến của Ngài có giá trị hữu ích, có tầm nhìn chiến lược rất được các nhà lãnh đạo quan tâm. Chẳng hạn như trong kinh Cứu-la-đàn-đầu (Trường bộ kinh I, số 5), Đức Phật nêu lên quan điểm lãnh đạo của mình như sau:

Trong một bài kinh khác, Đức Phật cho biết, nghèo đói là nguyên nhân chính của trộm cướp, hung ác, thù hằn, bạo động và các hành vi trái đạo lý. Vì thế chỉ có biện pháp cải thiện kinh tế, xóa đói giảm nghèo và quan tâm giáo dục tri thức, đạo đức mới ngăn chặn và làm giảm thiểu tệ nạn xã hội. Các hình phạt như xử tử, chặt tay chân, cầm tù, lưu đày, khổ sai… không hữu hiệu, không thể kiềm hãm tệ nạn xã hội và bất ổn chính trị (Trường bộ kinh II, kinh Chuyển luân thánh vương sư tử hống, số 26).

Đức Phật còn nêu ra 7 điều kiện thịnh suy của một quốc gia như sau:

Về phương pháp lãnh đạo, quản lý và điều hành một tổ chức, làm lợi ích cho số đông, Đức Phật dạy bốn pháp nhiếp hóa (Tứ nhiếp pháp):

Bốn phương pháp nhiếp hóa này có thể dùng riêng lẻ tùy trường hợp hoặc sử dụng phối hợp một cách khéo léo.

Quả thật, nếu áp dụng thực thi được những lời Đức Phật dạy thì vị quốc chủ là vị vua nhân từ, đức độ, anh minh sáng suốt có sức mạnh của muôn dân, lo gì đất nước không thái bình thịnh trị. Khi mọi người dân đều yêu quê hương đất nước, đều tôn kính, quý mến các nhà lãnh đạo, các binh sĩ vì nước vì dân; khi quân và dân đoàn kết gắn bó một lòng, các chủ trương, chính sách nhà nước hợp lòng dân, xã hội an cư lạc nghiệp thì nền chính trị yên ổn, vững mạnh, đất nước hùng cường.

What's your reaction?
0Cool0Bad0Happy0Sad

Thêm bình luận

VedepPhatgiao.com © 2024. All Rights Reserved.