Skip to content Skip to sidebar Skip to footer

Vì hoằng pháp cứu giúp thế gian mà thiền sư Hám Sơn gặp rất nhiều chướng nạn, nhưng đạo hạnh lại càng cao. Năm Quý Hợi (1623), niên hiệu Thiên Khải thứ 3, ngài viên tịch ở Tào Khê, trụ thế 78 năm, nhục thân hiện nay vẫn còn.

Thiền sư Hám Sơn (1546-1623) (zh. hānshān) là một thiền sư Phật giáo trong Thiền Tông và Tịnh Độ tông. Ngài được mệnh danh là một trong 4 vị “thánh tăng” đời nhà Minh (Trung Hoa) (ba vị còn lại là Tử Bá hiệu Ðạt Quán, Liên Trì và Ngẫu Ích). Thiền sư Hám Sơn là người để lại rất nhiều bài giảng dành cho mọi tầng lớp người trong xã hội bấy giờ.

Sau khi nhập diệt, thiền sư đã để lại nhục thân không bị hư thối. Nhục thân của Ngài được đặt tại Tào Khê cùng với nhục thân của thiền sư Huệ Năng và thiền sư Đan Điền hiện nay thuộc chùa Hoa Nam huyện Thiều Quang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.

Lược sử Thiền sư Hám Sơn

Thiền sư sư Hám Sơn (hay còn gọi là Hám Sơn Đức Thanh) tên tục là Thái Đức Thanh, hiệu Trừng Ấn. Sinh ngày 5 tháng 11 năm 1546 tại Toàn Tiêu, thuộc Châu Phủ Chúc Trừ nay thuộc về tỉnh An Huy. Vào sinh nhật đầu tiên (thôi nôi) thiền sư đột nhiên bị bệnh trầm kha không chữa nổi. Mẹ ngài đã phát nguyện với Phật Quán Thế Âm tại chùa là nếu ngài thoát chết thì sẽ cho ngài được xuất gia. Quả nhiên bệnh thuyên giảm. Thuở thơ ấu sư rất thường tư lự về nguyên do của vòng sinh tử. Trong toàn bộ cuộc đời thiền sư có khỏe không được mạnh và thường bị các mụt nhọt lớn hành hạ thân xác.

Năm 11 tuổi, ngài thuyết phục được người cha vốn không muốn cho con mình đi tu cho phép làm một sa di tại chùa Báo Ân nhưng vẫn chưa được chính thức xuất gia vì có sự ngăn trở của gia đình cho đến khi 19 tuổi mới được xuống tóc.

Năm 1571 sư bắt đầu hành cước vân du truyền giảng đạo pháp ở nhiều nơi. Nhân một hôm đi hành kinh rồi nhập định. Thiền sư không còn thấy thân tâm mình ở đâu nữa. Việc khai ngộ tâm tánh khiến sư viết lên bài kệ:

Khoảnh khắc nhất niệm, tâm cuồng ngưng

Căn trần nội ngoại, đều thấu suốt

Thân bay độc phá, thái hư không

Vạn tượng sum la, từ đây diệt.

Năm đó thiền sư được 31 tuổi. Từ đây, ngài đã vân du nhiều nơi và viết ra nhiều tác phẩm về Phật học.

Chướng nạn trong việc hoằng pháp cứu giúp thế gian của thiền sư Hám Sơn

Có một đêm, thiền sư Hám Sơn nằm mơ thấy A Di Đà hiện thân giữa hư không. Từ đó về sau, ngài thấy tượng Phật dường như phảng phất trước mặt. Thiền sư Hám Sơn tham thiền gần mười năm, khi được tỏ ngộ liền vào ẩn trong núi Lao Sơn. Trước kia, dân chúng chung quanh vùng ấy chưa nghe chánh pháp, nhưng khi ngài về ở không bao lâu, trẻ thơ ba tuổi đều biết niệm Phật. Từ Thánh Thái Hậu nghe danh, xin quy y làm đệ tử và cúng dường rất hậu. Có kẻ ganh ghét dèm pha chuyện ấy, vua giận biếm truất thiền sư đến miền Lôi Châu. Nơi đây, ngài lại trùng hưng đạo tràng Tào Khê. Sau vua xuống chiếu ân xá triệu về, đại sư bèn ở Lôi Sơn chuyên tu tịnh nghiệp. Rồi ngài lại đến Tào Khê niệm Phật mà hóa.

Thiền sư Hám Sơn dạy: Điều cần yếu nhất trong sự tu hành là tâm tha thiết về việc luân hồi sinh tử. Tâm sinh – tử không thiết tha, làm sao dám gọi là niệm Phật thành một khối? Nếu người qủa vì sự luân hồi mà tha thiết, thì mỗi niệm như cứu lửa cháy dầu, chỉ e mất thân người, muôn kiếp khó được. Lúc ấy quyết giữ chắc câu niệm Phật, quyết đánh lui vọng tưởng, trong tất cả thời tất cả chỗ, hiệu Phật thường hiện tiền, không bị vọng tình ngăn che lôi kéo. Dùng công phu khổ thiết như thế, lâu ngày niệm sẽ thuần thục, tâm được tương ưng, tuy không hy cầu mà niệm lực tự nhiên sẽ thành một khối. 

Ngày đêm sáu thời, chỉ đem một câu niệm Phật trấn định nơi lòng, mỗi niệm không quên, mỗi tâm không muội. Khi ấy gác bỏ tất cả niệm đời, xem câu niệm Phật dường như tánh mạng của mình, cắn răng giữ chặt, quyết không buông bỏ. Cho đến lúc đi đứng ngồi nằm, uống ăn làm việc, câu niệm Phật đây vẫn thường hiển hiện. Nếu gặp cảnh duyên phiền não, tâm không yên, chỉ nên chuyên niệm Phật, phiền não liền tự tan mất. Bởi phiền não là cội gốc luân hồi, niệm Phật là thuyền vượt qua biển khổ sinh tử, muốn thoát sinh tử chỉ đem câu niệm Phật phá tan phiền não, đó là phương pháp đơn giản mà rất hay.

Lập đạo tràng niệm Phật trong mười hai thời, không luận số người nhiều ít, chỉ chia ra thành ban, mỗi ban một thời, luân phiên nhau mà niệm. Như thế ngày đêm sáu thời, khi ban khác lên thay, thì ban này tuy lui mà song vẫn niệm thầm, hoặc lắng tai nghe tiếng Phật của bạn đương trì niệm. Giữ như thế thì tiếng Phật không dứt, vọng niệm không sanh, như người đi trong chỗ sâu tối, cứ kêu gọi nhau, tất không bị thất lạc. Và như thế thì động tịnh cũng như một, mình cùng người không khác. Phật A Di Đà thường hiển hiện, sự an điềm của đạo tràng không chi mầu nhiệm hơn đây.

Vì hoằng pháp cứu giúp thế gian mà thiền sư Hám Sơn gặp rất nhiều chướng nạn, nhưng đạo hạnh lại càng cao. Năm Quý Hợi (1623), niên hiệu Thiên Khải thứ 3, ngài viên tịch ở Tào Khê, trụ thế 78 năm, nhục thân hiện nay vẫn còn. Ngài có trước tác rất nhiều, trong đó có tác phẩm Mộng du tập được lưu hành ở đời.

Minh Chính

What's your reaction?
0Cool0Bad0Happy0Sad

Thêm bình luận

VedepPhatgiao.com © 2024. All Rights Reserved.