HT. Thích Thiện Hoa giảng:
I. MƯỜI MÓN MA VỀ HÀNH ẤM :
1. Chấp không nguyên nhơn sanh
A Nan, người tu thiền định khi tưởng ấn hết rồi, thì tâm được minh chánh, không còn khởi các vọng tưởng tham muốn như trên, nên các Thiên ma không gặp dịp thuận tiện để nhiễu hại nữa. Lúc bấy giờ hành giả tự nhiên cứu nguồn gốc của muôn lòai, rồi sanh ra hai lối chấp :
a/ Vì chỉ thấy biết được chúng sanh từ tám vạn kiếp trở lại, ngòai tám vạn kiếp thì mù mịt không thấy biết, nên sanh ra chấp : «Chúng sanh từ tám vạn kiếp trở lại tự nhiên có, không có nguyên nhơn sanh ».
b/ Hành giả nghiên cứu chỉ thấy người sanh ra người, chim sanh ra chim, quạ từ hồi nào đến giờ vẫn đen, không phải do nhuộm mà đen, cò từ hồi nào đến giờ vẫn trắng, không phải do rửa mới trắng v.v… từ tám vạn kiếp đến nay đã vậy, thì từ đây về sau cũng thế. Hành giả tự nghĩ ta từ hồi nào đến giờ không thành Bồ-đề, thì về sau đâu lại có thành Phật, rồi khởi ra tà chấp : « Các vật tượng ngày nay đều không có nguyên nhân ». Bởi mê mờ tánhBồ-đề, mất chánh tri kiến, sanh ra hai lối chấp trên, nên đều đọa về ngọai đạo.
2. Bốn món chấp thường
A Nan, người tu thiền định, khi tưởng ấm hết rồi, tâm được minh chánh, nên ngọai ma không còn thuận tiện để nhiễu hại được. Khi đó hành giả tham cứu tột cội gốc của muôn lòai, khởi ra bốn món chấp thường :
a/ Chấp hai vạn kiếp thuờng. – Vì hành giả nghiên cứu cùng tột cả tâm và cảnh đều vô nhơn, vì sức tu chỉ biết được chúng sanh sanh diệt xoay vần từ hai vạn kiếp trở lại không mất, nên chấp cho là thường.
b/ Chấp bốn vạn kiếp thường. – Hành giả tham cứu cùng tột tánh của tứ đại thường còn, do sức tu tập chỉ biết được chúng sanh từ bốn vạn kiếp trở lại, tuy có sanh diệt, mà bản thể nó vẫn thuờng còn thường mất, nên chấp là thuờng.
c/ Chấp tám vạn kiếp là thuờng. – Hành giả tham cứu cùng tận tám thức, thấy nó thường hằng. Vì thấy từ tám vạn kiếp trở lại chúng sanh xoay vần không mất, nên chấp là thuờng.
d/ Chấp cái không sanh diệt là thường. – Người tu thiền định khi các tưởng ấm sanh diệt đã hết, nhơn đó khởi tâm chấp cái không sanh diệt là thuờng.
A Nan, người tu thiền định, do mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ-đề, khởi ra bốn món chấp thường trên, nên đều đọa về ngoại đạo.
3. Chấp một phần thường, một phần vô thường
Người tu thiền định, khi tưởng ấm hết, nghiên cứu cùng tột cội gốc của sanh lọai, rồi khởi ra bốn lối chấp điên đảo :
a/ Chấp tâm là thường, chúng sanh vô thường. – Hành giả khi quán tâm mình yên lặng khắp cả mười phương, các chúng sanh từ trong tâm mình tự sanh và tự chết, rồi chấp tâm ta là thường, chúng sanh vô thuờng.
b/ Chấp thế giới, những chỗ bị họai là vô thuờng, những chỗ không bị họai là thuờng. – Người tu thiền định quán sát cả mười phương thế giới, chỗ kiếp họai (như từ Tam thiền trở xuống bị tam tai làm hại) thì chấp là vô thường ; những chỗ không họai thì chấp là thường (từ Tứ thiền trở lên, tam tai không làm họai được, chấp cho là cứu cánh Niết-bàn).
c/ Chấp cái tâm là thường, còn sanh tử là vô thuờng. – Người tu thiền định, quán as1t tâm mình không biến đổi, nó nhỏ nhiệm tinh vi như hạt bụi và lưu chuyển cả mười phương, lại khiến cho thân àny sanh và diệt mà nó không biến đổi; nên chấp cho : « Tâm là thường; tất cả các vật đều từ tâm sanh ra, có sanh tử nên vô thường ».
d/ Chấp hành ấm thường ; sắc, thọ, tưởng là vô thường. – Người tu thiền định, khi thấy sắc, thọ, tưởng ba ấm trước đã diệt, nên chấp là vô thường, thất hành ấm lưu chuyển thường còn nên chấp là thường.
Bốn lối chấp trên, đều sai lầm cả, do mê muội tánh Bồ-đề, mất chánh kiến, nên đọa về ngọai đạo.
4. Chấp có bốn món biên giới
Người tu thiền định, khi tưởng ấm hết rồi, thấy được cùng tột cội gốc của sanh lọai, lúc bấy giờ khởi ra bốn lối chấp có biên giới :
a/ Chấp ba đời. – Người tu thiền định, lúc bấy giờ chấp tâm niệm hiện tại tương tục (hành ấm) là vô biên, còn quá khứ và vị lai là hữu biên.
b/ Chấp chúng sanh. – Người tu thiền định vì chỉ thấy được chúng sanh trong tám vạn kiếp, nên chấp là hữu biên ; còn trước tám vạn kiếp thì tịch mịch không thấy và cũng không nghe, nên chấp là vô biên.
c/ Chấp tâm tánh. – Người tu thiền định khi thấy tâm mình biến khắp và biến ra tất cả người, nên khởi lên chấp tâm ta vô biên. Còn tất cả người đều ở trong tâm ta, là hữu biên.
d/ Chấp sanh diệt. – Người tu thiền định khi cùng tột hành ấm, thấy được tâm mình, sanh tâm chấp tất cả chúng sanh và thế giới đều có phân nửa sanh và phân nửa diệt; sanh là hữu biên, diệt là vô biên.
Các lối tà chấp trên, đều do trong khi tu thiền mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ-đề, nên đều đọa về ngọai đạo cả.
5. Bốn món luận nghị rối lọan không có nhứt định
Người tu thiền định, khi tưởng ấm hết, liền khởi ra bốn lối chấp điên đảo không nhất định :
a/ Chấp tám món cũng. – Người tu thiền định, khi quán sát nguồn gốc biến hóa của muôn vật, thấy có chỗ thì biến đổi, có chỗ lại thường còn ; có cái sanh, có cái diệt ; có pháp tăng, có vật giảm, có cái có, có cái không. Bởi thế nên có ai đến hỏi đạo thì nói rằng : « Cũng biến, cũng hằng, cũng sanh, cũng diệt, cũng tăng, cũng giảm, cũng có, cũng không ». Lúc nào cũng nói rối lọan như vậy, làm cho người không hiểu chi cả.
b/ Chấp duy cái « không ». – Người tu thiền định, vì quán cả tâm và pháp đều không ; rồi cứ chấp ở nơi cái « không ». Có ai đến hỏi đạo thì họ chỉ đáp một chữ « không » ; ngòai cái « không » ra thì không còn nói chi nữa cả.
c/ Chấp duy cái « có ». – Người tu thiền định, do quán sát tâm mình biến khắp tất cả, chỗ nào cũng có, rồi cứ chấp ở nơi cái « có ». Có ai đến hỏi đạo, thì họ chỉ nói một chữ « có »; ngòai cái « có » ra thì không còn nói gì nữa cả.
d/ Chấp « cũng có » và « cũng không ». – Người tu thiền định vì thấy ở nơi cảnh đã lăng xăng, còn tâm thì rối lọan, nên có người đến hỏi đạo thì đáp rằng : « cái cũng có » cũng tức là « cái cũng không » ; trong cái « cũng không » cũng tức là cái « cũng có ». Lúc nào họ cũng nói rối lọan như vậy, không ai gạn cùng được.
Người tu thiền định vì mất chánh kiến mê mờ tánh Bồ-đề, khởi ra các lối chấp như vậy, nên đều đọa về ngọai đạo.
6. Chấp mười sáu tướng có
Người tu thiền định khi tưởng ấm hết, chỉ còn hành ấm diêu động, họ thấy một nguồn sống vô tận, nên sanh tâm chấp cho « chết rồi còn tướng ».
Chấp về sắc uẩn có bốn : a) chấp sắc uẩn là « ta », b) chấp « ta » có sắc uẩn, c) chấp sắc uẩn thuộc nơi « ta », d) chấp « ta » ở nơi sắc uẩn.
Còn Thọ, tưởng, hành mỗi uẩn cũng đều có bốn lối chấp như vậy, cộng thành mười sáu tướng. Hoặc chấp phiền não và Bồ-đề hai tánh thật có, hết phiền não mới được Bồ-đề ; hai tánh không chung gặp nhau.
Vì hành giả trong lúc tu thiền, mất chánh tri kiến, mê mờ tánh Bô-đề, khởi ra các lối tà chấp trên, nên đều đọa về ngọai đạo.
7. Chấp tám món vô tướng
Người tu thiền định khi sắc, thọ, tưởng đã diệt rồi, lúc bấy giờ thấy thấy thân hình hiện tiền đây còn không thật có, thì khi chết rồi làm gì có các hình tướng. Vì so sánh như vậy, nên chấp chết rồi không có hình tướng. Thấp sắc ấm như vậy thì thọ, tưởng, hành cũng như vậy chấp hiện tại và vị lai đều không tướng), thành ra tám món vô tướng. Hoặc chấp Niết-bàn chỉ có cái tên suông, không có nhơn quả, rốt ráo đọan diệt.
Vì hành giả mê mờ tánh Bồ-đề, mất chánh tri kiến, khởi ra các lối tà chấp như vậy, nên đều đọa về ngọai đạo.
8. Chấp tám món cu phi
Người tu thiền định, đối với ba ấm : sắc, thọ và tưởng, trước kia thấy có mà nay lại không ; còn đối với hành ấm thiên lưu hiện nay thì có mà về sau lại không. Vì họ chấp mỗi ấm đều có hai tướng : chết rồi phi hữu và phi vô ;cả bốn ấm thành ra tám tướng, Bởi hành giả mê mờ tánh Bồ-đề, mất chánh tri kiến nên đọa về ngọai đạo.
9. Chấp năm món đọan diệt
Người tu thiền định, khởi ra các chấp : cõi dục thì sắc thân » diệt hết ; cõi Sơ thiền các « dục » diệt hết ; cõi Nhị thiền các « khổ » diệt hết, cõi Tam thiền các « vui » diệt hết ; cõi Tứ thiền các « xả » diệt hết.
Như vậy xoay vần cùng tột cả năm chỗ đều chấp hiện tiền tiêu diệt, diệt rồi không sanh trở lại. Vì hành giả mê mờ tánh bồ-đề, mất chánh tri kiến, sanh các lối tà chấp như vậy, nên đọa về ngọai đạo.
10. Chấp năm món Niết-bàn hiện tại
Người tu thiền định, khi thọ ấm hết, xét cùng cội gốc của sanh lọai, khởi ra chấp na7m chỗ Niết-bàn : a) Chấp dục giới là cảnh Niết-bàn, b) Chấp cõi Sơ thiền là Niết-bàn, c) Chấp Nhị thiền là Niết-bàn, d) Chấp tam thiền là Niết-bàn, e) Chấp cõi Tứ thiền là Niết-bàn.
Vì ành giả mê muội tánh Bồ-đề, chấp năm cảnh vui cõi trời hữu lậu mà cho là Vo vi Niết-bàn, nên đọa về ngọai đạo.
Tóm lại:
A Nan, mười cảnh ma về hành ấm này, là do hành giả dụng tâm sai lầm nên mới sanh ra như vậy. Vì hành giả mê mờ không biết, tự cho là chứng Thánh, sanh đại vọng ngữ, nên đọa vào ngục vô gián. Vây các ông nên đem các việc ma này truyền dạy cho chúng sanh đời sau, chớ để cho người tu thiền bị tâm ma khởi lên làm hại đến thế. Các ông phải bảo hộ người tu hành đi thẳng đến đạo Bồ-đề, chớ để cho họ gặp con đuờng chia tẽ.
II. MƯỜI MÓN MA VỀ THỨC ẤM :
1. Chấp minh đế
Người tu thiền định khi hành ấm hết, chỉ còn thứcấm, các tướng sanh diệt đã hết, mà tâm thanh tịnh tịch diệt chưa hiện bày. Lúc bầy giờ nếu hành giả móng tâm chấp là chơn thường, thì mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ-đề, thành bạn bè với phái ngọai đạo Ta-tỳ-ca-la, chấp minh đế (sơ tướng A-nại-da) là cái chỗ trở về của vạn vật trái với thành Niết-bàn, đọa về ngọai đạo.
2. Chấp năng sanh
Người tu thiền định khi hành ấm hết, các tướng sanh diệt đã diệt, mà tâm thanh tịnh tịch diệt chưa hiện, khi đó thấy thức tâm mình châubiến, rồi khởi ra cái chấp : « Tất cả chúng sanh đều do ta sanh ra ». Vì sanh tâm chấp như thế,nên mất cáhnh kiến, mê lầm tánh Bồ-đề, thành bà con của trời Đại-ngã-mạn (Mê-hê-thủ-la-thiên).
3. Chấp chơn thường
Người tu thiền định khi hành ấm hết, thức ấn hiện ra, rồi sanh tâm nghi : Thân mình và mười phương hư không đều từ thức kia hiện ra, nên sanh tâm chấp cho « Thức là chơn thường », mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ-đề, thành bè bạn của trời Tự tại.
4. Chấp cây cỏ cũng đều biết
Người tu thiền định khi hành ấm hết, tướng sanh diệt đã diệt, chơn tâm tịch diệt chưa hiện bày, lúc bấy giờ thức ấm biến khắp tất cả, rồi sanh tâm chấp : « Mười phương cây cỏ cũng đều là hữu tình, cùng với người không khác. Cỏ cây chế làm người, người chết trở lại làm cỏ cây ».Mê mờ tánh Bồ-đề, mất chánh kiến, nên sẽ làm bè bạn với hai chúng ngọai đạo Bà-tra và Tán-ni, chấp tất cả vạn vật đều có tri giác (biết).
5. Chấp tứ đại hóa sanh
Người tu thiền định khi hành ấm hết, chơn tâm chưa hiện, lúc bấy giờ thấy lửa sáng, nước trong, gió động, đất cứng, do bốn món này sanh ra các vật, rồi chấp cho là thường còn, hế lòng cung kính phụng thờ. Như ông Ca Diếp Ba và phái Bà-la-môn thờ lửa, thờ nước v.v… để cầu ra khỏi sanh tử, mê mờ tánh Bồ-đề, mất cáhnh kiến, đọa làm ngọai đạo.
6. Chấp hư vô
Người tu thiền định khi hành ấm hết, thấy thức ấm viên minh, rồi sanh ra chấp cái thức ấm hư vô, là chỗ nương của muôn vật, tất cả các vật đều về chỗ hư vô. Vì vậy mà mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ-đề, nên thành bè bạn với trời Vô tưởng, Tứ không và thần Hư không.
7. Tham cầu sống lâu
Người tu thiền định khởi tâm tham cầu thân này thường còn, cố làm cho thân này được sống hòai không chết, nên thành bè bạn của tiên A Tư Đà, cầu mạng sống lâu, mê mờ tánh bồ-đề, mất cáhnh kiến, đọa về ngọai đạo.
8. Tham luyến cảnh dục
Người tu thiền định khi hành ấm hết, lúc bấy giờ thấy thân thể và thức tâm tiêu diệt, cho nên sanh tâm lưu luyến lại cảnh trần, tự biến hóa ra nhiều cảnh ab1u đẹp và nhiều mỹ nữ, rồi mặc tình vui thú. Vì mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ-đề, nên thành bè bạn của Thiên ma ở cõi trời Tự tại (trên đảnh cõi Dục).
9. Định tánh Thinh-văn
Người tu thiền định khi hành ấm hết, các tướng sanh diệt đã diệt, mà chơn tâm tịch diệt chưa viên, lúc bấy giờ khởi tâm tham luyến ở chỗ không tịch, chẳng muốn tăng tiến, vì mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ-đề, đọa về hàng Định tánh Thinh-văn, như ông Vô Văn Tỳ-kheo, sanh tâm tăng thượng mạn.
10. Định tánh Duyên-giác
Người tu thiền định khi hành ấm hết, chỉ thấy một màu thanh tịnh sáng suốt, lúc bấy giờ sanh tâm chấp cho đó là Niết-bàn ; rồi tham trước cảnh này, không cầu tăng tiến, mê mờ tánh Bồ-đề, mất chánh kiến, nên đọa về hàng Định tánh Duyên-giác.
Tóm lại:
A nan, mười món ma này, do người tu thiền, khi dụng tâm páh trừ thức ấm, nên nó biến hiện ra các cảnh như vậy. Vì mất chánh tri kiến, mê lầm tánh Bồ-đề, khởi tâm chấp trước, cho mình đặng thiền, đặng đạo, thành Phật, thành Thánh v.v… có người sanh ra diên cuồng, nên đều đọa về ngọai đạo cả.
Vậy các ông phải giữ gìn nơi lòng, vâng lời Ta dạy : Sau khi Ta diệt độ rồi, các ông phải đem lời Ta dạy đây mà truyền dạy cho chúng sanh đời sau, bảo hộ người tu hành, chớ để cho chúng ma làm hại. Trên đường tu hành họ được thẳng vào chỗ tri kiến của Phật chẳng gặp các đường tẽ.
Này A Nan, người trong khi tu thiền, gặp ma nó biến hiện ra nhiều cảnh rất là vi tế, nếu các ông hiểu biết, rửa sạch tâm cấu nhiễm, chẳng khởi tà kiến, thì cảnh ma kia lần lần tiêu diệt, các ông sẽ thẳng đến đạo Bồ-đề.
Còn như đời sau, có chúng sanh nào chẳng dám tu thiền, sợ bị các ma nhiễu hại, thì ông nên khuyên họ nhất tâm trì chú Lăng Nghiêm này, để các ma chướng kia không thể hại được, rồi cũng thẳng đến được đạo Bồ-đề.
Khi Phật nói Kinh này rồi, tòan cả hội chúng, nào là : tăng, Ni, thiện nam, tín nữ, trời, người, thần A-tu-la, Thánh, Tiên, quỉ thần, Thinh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát, tất cả đều hoan hỷ lễ Phật rồi trở lui.
LƯU Ý:
Quý Phật tử đọc hết đọan ngũ ấm ma này rồi, từ đây về sau, trên đường tu hành cần phải thận trọng, chớ nên gặp chi tin nấy, mà nguy hiểm cho mình về hiện tại cũng như tương lai.
Chúng tôi thấy trong giới Phật tử, phần đông là hàng phụ nữ (xin lỗi quý bà) lòng tin tưởng dồi dào lắm ! Mỗi khi thấy một việc gì lạ thường, có tính cách thần kỳ huyễn hoặc, không chịu bình tâm suy xét chơn hay ngụy; cứ cho đó là Phật thị hiện hay Bồ-tát giáng thế v.v… rồi rủ nhau tin tưởng theo càn, say mê như người nghiện thuốc, rủ nhau theo rất đông cho đến đỗi như cả phong trào. Như những việc trước mắt… mà quý vị đã thấy vừa qua… kết cuộc rồi thế nào quý vị đã biết rõ… Thật nguy hại vô cùng ! Nếu lỡ một phen bước vào đường tà rồi, thì trăm kiếp ngàn đời khó trở lại.
Tôi xin dẫn một vài bằng chứng trong Kinh, để quý vị xem qua, đặng cẩn thận những điều nguy hiểm trong lúc tu hành.
« Thuở xưa, Tổ Ưu Bà Quật Tôn giả đang nhập định, bị Thiên ma Ba tuần khuấy nhiễu… Đến khi xuất định, ngài dùng thần thông hàng phục được Thiên ma. Sau khi chúng đã hối ngộ quy y Tam bảo rồi, vì cảm hồng ân tế độ của Tổ sư, nên đến xin cúng dường ngài một bữa cơm để tỏ lòng tri ân.
Tổ sư dạy : – « Ta vì chuyên lo tu hành không giờ rảnh để đi thụ trai. Ta chỉ muốn xem một việc, nếu ngươi bằng lòng, thế là đền ơn cho ta rồi ». Thiên ma : – « Dạ, đệ tử xin vâng ». Tổ sư dạy : – « Khi Phật ra đời đã có ngươi : vậy trong lúc đó Phật cùng các vị Thánh chúng như thế nào ? Hôm nay ngươi hóa hiện lại cho ta xem thử ». Thiên ma thưa : – « Con xin vâng lời Tổ sư dạy. Nhưng khi con hóa hiện ra Phật, xin Tổ sư nhớ đừng lạy, vì sợ tổn phước con nhiều ». Tổ sư hứa lời.
Thiên ma a tuần liền biến mất, trong giây phút hóa hiện ra Đức Phật, thân vàng rực rỡ, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, hào quang sáng chiếu khắp cả một góc trời, trong rừng từ từ đi ra. Nào là ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nan, Ca Diếp đứng hầu hai bên oai nghi tề chỉnh đủ cả 1.250 vị đệ tử, rần rộ theo sau…
Tổ Ưu Bà Quật Tôn giả thấy Phật đi đến phóng hào quang rực rỡ, các vị Thánh chúng theo hầu, oai nghi tề chỉnh v.v… nên hết sức vui mừng, liền đứng dậy kính lễ, mà quên hẳn lời hứa trước kia. Lúc bấy giờ Thiên ma biến mất ».
Phật tử chúng ta xem qua đọan này, nên xét nghĩ : Như Tổ Ưu Bà Quật Tôn giả đã biết trước là ma hiện ra Phật và có hứa hẹn trước « không lạy », mà đến khi ma hiện ra còn quên, không phân biệt là ma hay Phật. Nếu chúng ta tình cờ gặp cảnh ngộ như thế, thử nghĩ trong tâm chúng ta thế nào ?
Bởi thế trên đường tu hành, lúc nào chúng ta cũng phải cẩn thận cho lắm, chớ nên thấy cái gì lạ, không chịu suy xét kỹ, cứ nhắm mắt theo càn, ùa nhau tin tưởng cho là Thần, Thánh thật. Lỡ một phen sa vào đường tà rồi, thì trăm kiếp ngàn đời khó trở lại. Chúng ta nên nhớ rằng : cái gì thiệt thì nó vẫn thiệt, dù mình tin hay không tin nó cũng không mất. Còn cái gì giả thì ồ ạt trong một thời gian mà thôi, nếu người không tin thì nó sẽ tự tiêu diệt.
Phật dạy các đệ tử : « Không nên thấy Phật cứ theo, nghe lời Phật nói cứ tin ; mà phải luôn luôn suy nghĩ, nếu đúng chơn lý sẽ tin theo ». Phật dạy như thế, để cho các Phật tử khỏi bị tà ma ngọai đạo dối gạt.
Trong Kinh Kim Cang Phật dạy :
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thinh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như lai
Đại ý đoạn này Phật dạy: Nếu ngời nào cho rằng thấy sắc thân của Phật có 32 tướng tốt, là thấy được Phật, thì ông Chuyển Luân Thanh Vương cũng có đủ 32 tướng tốt, hoặc ma nó hiện ra sắc thân Phật có đủ tướng tốt, vậy cũng là Phật hay sao? – hay nghe tiếng nói pháp thanh tao của Phật mà cho là nghe được tiếng Phật, thì tiếng chim Ca-lăng-tần-già, kêu rất thanh tao lảnh lót, vậy cũng là tiếng nói của Phật hay sao? Những người tin tưởng như vậy, là theo tà đạo, không bao giờ thấy được Phật.
Phật thường nhắc nhở dặn dò các đệ tử: Phải dùng giáo lý chơn chánh dạy người. Khi người hiểu được chơn lý rồi tin theo, thì lòng tin đó mới được chơn chánh. Phật cấm các đệ tử không cho dùng phép thần thông hay phép lạ để cảm hóa người. Chỉ trừ một vài trường hợp hàng phục Ngọai đạo hoặc quỉ thần; vì sợ sau này Thiên ma ngọai đạo dùng thần thông hay phép lạ làm mê hoặc người.
Vì thế nên Phật không từ trên hư không rớt xuống, hay tự nhiên xuất hiện; mà Ngài lại thị hiện cũng như người, lớn lên có vợ con, rồi đi tu và thành đạo v.v… để cho chúng sanh sau này, đừng tin tưởng những điều huyễn hoặc thần kỳ.
Khi Phật còn trụ thế, có người đàn việt đem dâng cái bình bát cho chư tăng, lại để trên đầu một cây cột phướn cao, và thưa rằng: “Nếu vị nào lấy được tôi sẽ cúng cho”.
Khi đó ông Tân Đầu Lô Phã Đọa Xà Tôn giả, dùng thần thông lấy cái bình bát ấy. Ông bị Phật quở trách rất nghiêm khắc, và phạt ông phải ở lại thế gian ứng cúng, làm phước điền cho chúng sanh, không được nhập diệt. Và Phật còn chế ra giới luật cấm các đệ tử không được dùng thần thông hay phép lạ trước người phàm phu.
Trong kinh cũng có chỗ nói, các Đức Phật và Bồ-tát thỉnh thỏang thị hiện ra đời để hóa độ chúng sanh, như Đức Di Lặc hay Ngài Quán Thế Âm v.v… Nhưng khi các Ngài hiện ra không ai biết được, chỉ trừ đến khi tịch diệt, các Ngài mới để lại vài di tích. Chừng đó người đời mới biết Phật hay Bồ-tát thị hiện; khi biết thì không còn thấy các Ngài nữa.
Như Đức Di Lặc bồ-tát hiện thân làm vị Bố đại Hòa thượng. Ngài thường xách bị lớn bằng vải, đi khắp đó đây để hóa độ chúng sanh, mà người đời không ai biết, chỉ gọi Ngài là vị Bố đại Hòa thượng(1). Đến khi thị tịch, Ngài nói một bài kệ, lúc bấy giờ người ta mới biết là Đức Di Lặc Bồ-tát hiện thân.
Bài kệ:
Di Lặc chơn Di Lặc,
Hóa thân thiên bách ức,
Thời thời thị thời nhân,
Thời nhân giai bất thức.
Nghĩa là: Di Lặc thật là Di Lặc, biến hóa trăm ngàn muôn ức thân hình; thường thường thị hiện độ người, mà người đời chẳng ai biết.
III. KẾT LUẬN
Đại ý toàn cả bộ kinh này, Phật dạy chúng sanh phải trở về với thể tánh chơn tâm thường trụ, đồng với ý nghĩa như trong Kinh Pháp Hoa : « Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến ».
Phật đã dạy cho chúng ta biết rằng : Chư Phật và chúng sanh cũng đồng một bản thể chơn tâm không khác. Vì chúng sanh mê muội thể tánh chơn tâm này, nên phải chịu sinh tử luân hồi ; còn chư Phật đã ngộ chơn tâm nên được tự tại giải thóat. Vì vậy mà Phật dạy : « Ta là Phật đã thành, còn các chúng sanh là Phật sẽ thành ».
Nguyên nhân Phật nói Kinh này, là do ngài A Nan thị hiện mắc nạn, bị nàng Ma-đăng-già bắt. Sau khi nhờ Phật cứu độ được thóat nạn rồi, ngài mới cầu Phật chỉ dạy cho phương pháp nào mà mười phương các Đức Phật tu hành đều được thành đạo chứng quả.
Nhơn đó Phật nói Kinh Lăng Nghiêm, để chỉ rõ chơn tâm. Nếu giác ngộ được chơn tâm là được thành Phật. Đó là một con đường tu duy nhứt của chư Phật quá khứ, hiện tại cũng như vị lai.
Trước khi chỉ chơn tâm thì Phật gạn hỏi cái tâm theo thường tình chúng sanh vọng chấp. Bảy đọan hỏi tâm làm cho ngài A Nan cùng đường tột lối ; lúc bấy giờ Phật mới từ từ chỉ cái tâm đến sáu lần. Ban đầu Phật tạm chỉ các giác quan về phần trực giác như thấy, nghe v.v… là tâm. Khi A Nan và đại chúng đều hiểu rồi, Phật lại chỉ lên một từng nữa : « Các giác quan tuy không phải vọng, nhưng cũng chưa phải là chơn tâm, nó cũng như mặt trăng thứ hai v.v… » Phật lại chỉ cái Bản thể sanh ra các giác quan (hiện tượng) mới thật là chơn tâm. Tức là ở về đọan, trong văn kinh chữ Hán chép : « Kiến kiến chi thời, kiến vi thị kiến, kiến du ly kiến, kiến bất năng cập v.v… ».
Phật dạy : vì các ông còn ở trong vòng mê, nên chỉ gọi là giác quan : Thấy, nghe, hay, biết của chúng sanh ; đến khi ngộ rồi thì gọi là bốn đức Niết-bàn của Phật : thường, lạc, ngã, tịnh. Và Phật dạy : Tất cả các pháp đều từ tâm biến hiện, như năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới và bảy đại đều do tâm sanh ra, rồi cũng trở về thể tánh chơn tâm. Thế là Ngài dẫn cái tướng qui về chơn tánh.
Đến đọan này ngài A nan mới ngộ được chơn tâm, nên đứng dậy lạy Phật và xứng theo thể tánh chơn tâm rộng lớn mà phát lời thệ nguyện rộng sâu vô tận.
Ngài nguyện rằng : « Trong đời ngũ trược tội ác, con thề vào trước để độ chúng sanh ; nếu còn có một chúng sanh nào chưa thành Phật thì con thề chẳng lãnh quả vui Niết-bàn… » Và câu « Hư không kia có thể tiêu hết, chớ chí nguyện của con đây không hề lay chuyển ». Cũng vì ngộ được đồng thể chơn tâm, nên ngài mới phát lời thệ nguyện rộng lớn như thế.
Mình đã được độ, muốn cho chúng sanh cũng đều đuợc độ, nên ngài A nan cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành cho chúng sanh đời sau :
Phật dạy có ba việc :
1.- Khi đối cảnh không khỏi vọng niệm phân biệt theo vọng trần ; tức là câu « bất tùy phân biệt ». Nghĩa là, xoay các giác quan như thấy, nghe, hay, biết đều trở về thể tánh chơn tâm. Nếu vọng niệm không khởi thì chơn tâm hiện bày, đây là một pháp tu trực chỉ của bậc thượng căn.
2.- Phật dạy trì giới. Nhơn trì giới tâm đuợc thanh tịnh, nhờ tâm tịnh mới phát sanh ra trí huệ, để phá trừ vô minh. Vô minh hết thì chơn tâm tự hiện bày. Nhưng trong Kinh này nói trì giới là chỉ cho tâm giới. Nghĩa là thân đã không sát, đạo, dâm vọng cho đến cái « biết mình đã đọan trừ » cũng không còn. Thật là cao siêu vô cùng, khó khăn tột bực. Vì nếu tâm còn móng một tý vọng niệm gì, thế là tâm chưa tịnh. Nếu tâm chưa tịnh thì giới thể chưa viên.
3.- Phật dạy, nếu người nào nghiệp chuớng nặng nề, thì nên chí tâm trì tụng chú Lăng Nghiêm, dù nghiệp chướng nặng đến đâu cũng lần lần tiêu hết, phước lành tăng trưởng, sẽ thành đạo Bồ-đề ; như thuận gió tung bụi chẳng có khó khăn gì.
Trên đường tu hành, Phật dạy phải trải qua các thứ ma (sắc, thọ, tưởng, hành, thức mỗi ấm có mười) nó biến hiện đủ điều, nào là ma nội tâm, ma ngọai cảnh, đủ cách nhiễu hại hành giả. Cho đến khi gần thành Phật mà nó cũng vẫn còn theo phá. Như thái tử Sĩ Đạt Ta, trước giờ phút đại ngộ, dưới gốc cây Bồ-đề, vẫn còn bị ba người con của Ma vương tân lực khuấy nhiễu. Đến sao mai sắp mọc Ngài thành Phật mới hết.
Sau mỗi đọan ma hiện, Phật đều dạy rằng : « Do hành giả dụng công tu thiền, nên nó biến hiện ra như vậy, không phải là đặng đạo hay chứng Thánh, nếu hành giả biết trước thì các cảnh ma kia lần lần tiêu diệt không hại chi, còn mê lầm không biết, cho mình đặng đạo hay chứng Thánh, sanh tâm chấp trước, thì bị ma nó cám dỗ, rồi phải đọa vào đuờng tà, làm quyến thuộc của ma.
Bởi thế, nên người tu hành cần phải thận trọng, chớ nên gặp chi tin nấy mà bị ma cám dỗ, rất nguy hiểm cho đời mình về hiện tại cũng như vị lai.
Phật nhắc đi nhắc lại nhiều lần, bảo các đệ tử : « Nên đem lời Ta nói đây truyền dạy cho chúng sanh đời sau, khiến cho mọi người đều biết rõ, để tránh khỏi bị ma nhiễu hại, trên đường tu hành đuợc thẳng đến đạo Bồ-đề ».
Phật lại thiết tha kêu gọi các đệ tử : Hôm nay các ông đã được Ta tế độ rồi, vậy các ông không nên nhập diệt sớm, mà phải nguyện ở lại đời mạt pháp, để bảo hộ người tu hành đời sau, thế mới là người biết ơn Phật.
Lòng từ của Phật thật là vô biên, tế độ chúng sanh không cùng tận, thương chúng ta như mẹ thương con, dạy dỗ chúng ta như mẹ hiền khuyên con dại ; nhắc đi nhắc lại nhiều lần không biết mỏi. Thật đúng với câu : « Đại từ đại bi mẫn chúng sanh. Đại hỷ, đại xả tế hàm thức… ».
Phật tử chúng ta phải làm thế nào để khỏi phụ lòng thương yêu của Từ Phụ, cho xứng với danh từ « Phật tử ».
———————————————————————————————————————
(1) Bố đại Hòa thượng là vị Hòa thượng tay cầm cái đãy lớn bằng vải. Người mập bụng to, sắc mặt thường hoan hỷ. Hiện nay ở các chùa phần nhiều đều có thờ Ngài, người đời thường gọi là Đức Di Lặc.