Trong phong trào đấu tranh Phật giáo miền Nam năm 1963 đã xuất hiện nhiều vị tăng, ni, phật tử không ngại hy sinh thân mình để bảo tồn đạo pháp, Sư bà Diệu Không là một trong số đó.
Trong những ngày pháp nạn, Sư bà Diệu Không đã cải trang giấu mình lại làm bà Cao Xuân Xang cùng Sư bà Diệu Huệ vào Sài Gòn để mở cuộc họp báo “từ” ông Bửu Hội vì ông Bửu Hội theo ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu chống lại Phật giáo.
Phong trào đấu tranh Phật giáo miền Nam năm 1963 là một sự kiện có ý nghĩa của lịch sử Việt Nam hiện đại. Lực lượng nòng cốt của phong trào này là các vị tăng, ni, phật tử với quyết tâm bảo vệ Phật pháp trước sự đàn áp và kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Một điều đặc biệt, phương pháp chủ đạo của phong trào là dùng bất bạo động để chống lại bạo tàn, được nhiều tầng lớp khác nhau của xã hội hưởng ứng và quốc tế ủng hộ.
Trong phong trào này, Phật giáo miền Nam đã xuất hiện nhiều vị tăng, ni, phật tử không ngại hy sinh thân mình để bảo tồn đạo pháp như: Hòa thượng Thích Quảng Đức (Sài Gòn), Sư Thích Thanh Tuệ (Huế), Ni sư Diệu Quang (Khánh Hòa), Sư Thích Tiêu Diêu (Huế), Phật tử Mai Tuyết An (Sài Gòn), …
Họ được xem là những ngọn lửa từ bi có khả năng thiêu đốt bạo lực và làm cho kẻ thù phải chùn bước, rúng động lòng người. Tiếp nối điều này, bài viết giới thiệu một nhân vật quan trọng trong phong trào đấu tranh Phật giáo miền Nam năm 1963: Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không bậc chân tu nổi tiếng của thiền môn xứ Huế. Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không
Một đời hương đạo rạng thiền môn
Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905 – 1997), tên thật là Hồ Thị Hạnh, sinh trưởng trong một gia đình quyền quý thời bấy giờ ở kinh đô Huế. Thân phụ của Ni trưởng là Khánh Mỹ công Hồ Đắc Trung (1861-1941) – một vị quan đại thần sống giản dị, thanh liêm, có tinh thần yêu nước. Các anh, chị, em trong gia đình được hấp thụ hai nền giáo dục cả Đông và Tây, một số người trở thành những tên tuổi lớn đóng góp cho cách mạng Việt Nam như: Hồ Đắc Di, Hồ Đắc Điềm, Hồ Đắc Liên…
Bản thân Bà giỏi chữ Hán lẫn thông thạo tiếng Pháp. Ở Huế, khi chưa xuất gia, do có mối quan hệ rộng với nhiều giới chức chính quyền, nên Bà là thành viên tích cực của nhiều hoạt động yêu nước và từ thiện xã hội.
Năm 1929, vừa muốn trả hiếu vừa thương xót bầy trẻ thơ bơ vơ mất mẹ, Bà đồng ý lập gia đình với ông Cao Xuân Xang – con trai thứ của quan đại thần Cao Xuân Dục, nhưng chỉ trong vòng một năm sau (1930) thì ông mất. Rũ bỏ nghiệp duyên sớm, bà tinh tấn học Phật.
Năm 1932, sau khi thu xếp ổn thỏa chuyện gia đình, Bà bước vào cửa thiền, xuất gia tại chùa Trúc Lâm (Huế) do Hòa thượng Giác Tiên (1879-1936) – một cao tăng của đất Thần kinh truyền thập giới làm Sa-di-ni với pháp tự Diệu Không, húy Trừng Hảo, đạo hiệu Nhất Điểm Thanh. Sư bà là một nhân vật có nhiều đóng góp cho Phật giáo Việt Nam khoảng nửa cuối thế kỷ XX.
Ngày 22 tháng 8 năm Đinh Sửu (1997), tại chùa Hồng Ân (Huế), Sư bà Diệu Không viên tịch trong sự thương tiếc của môn đồ pháp quyến cũng như Tăng Ni, Phật tử cả nước. Bảo tháp của Ni trưởng tọa lạc trên ngọn đồi thông mát rượi trong khuôn viên chùa này.
Những đóng góp của Sư bà Diệu Không trong phong trào năm 1963
Lấy lý do không đồng tình với việc treo cờ nhân ngày Phật đản năm 1963 của tăng, ni, phật tử Huế, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tiến hành triệt hạ cờ Phật giáo. Việc làm này gây bất bình cho phần lớn người dân ở Huế khi ấy. Ngày 7-5-1963, phái đoàn Phật giáo do hai vị cao tăng Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và Thích Giác Nhiên dẫn đầu đến tư dinh tỉnh trưởng để phản đối đã làm xúc động đồng bào phật tử nơi đây.
Tối ngày 8-5-1963, tại Đài Phát thanh Huế, binh lính dùng súng và lựu đạn tấn công đoàn người đến đòi giải trình việc không phát chương trình phát thanh của Phật giáo. Máu đã đổ và phong trào đấu tranh Phật giáo bắt đầu diễn ra và lan rộng cả miền Nam sau đó với nhiều hình thức như biểu tình, tuyệt thực, tự thiêu,….làm đau đầu chính quyền Ngô Đình Diệm. Đỉnh điểm của phong trào là sự kiện Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn vào ngày 11-6-1963 làm chấn động quốc tế.
Lúc này, giới Phật giáo miền Nam tiếp tục đấu tranh, trí thức, sinh viên biểu tình phản đối liên tục, còn dư luận quốc tế thì lên án mạnh mẽ. Thế nhưng, vào ngày 20-8-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm tấn công một số chùa chiền quan trọng và bắt giữ các vị tăng, ni lãnh đạo phong trào, phật tử cùng một số sinh viên ở Huế và Sài Gòn. Không lâu sau đó, ngày 1-11-1963, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị tướng tá dưới quyền đảo chánh và cả hai bị bắn chết.
Người bị giam được thả ra và phong trào kết thúc. Trong suốt giai đoạn pháp nạn này, Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không, với hạnh nguyện “Nguyện Phật chứng minh muôn vạn kiếp, con xin lăn lóc cõi ta-bà” không hề lay chuyển, đã gắn bó mật thiết với phong trào ở cả Huế và Sài Gòn tại những thời khắc lịch sử. Súng đạn, xe tăng, nhà tù và mưu mô của thế lực bạo tàn đã không ngăn nổi lòng quyết tâm của bậc chân tu vốn thấm nhuần tinh thần “vị pháp vong thân” trong lúc đạo pháp gặp hiểm nghèo, chông chênh và đồng bào đang rên siết dưới tội ác của chúng. Một số hoạt động tiêu biểu cũng như phong thái nổi bật của Sư bà Diệu Không được thể hiện như sau:
Thứ nhất, Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không là người đầu tiên xin tự thiêu để chống lại sự kỳ thị Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Trong quyển hồi ký của mình, Sư bà đã thuật lại như sau:
“Một hôm, tôi được mời về Từ Đàm họp. Thượng tọa Trí Quang nói:
– Miền Nam im lìm vậy, làm sao có đông Tăng Ni hưởng ứng?
Thượng tọa Thiện Minh:
– Phải có người hi sinh mới xong.
Tôi nói:
– Hi sinh đây là chết phải không?
Thượng tọa Trí Quang đáp là:
– Phải
– Vậy tôi xin đứng đầu đội cảm tử cho.
Hòa thượng Thiền Tôn hỏi:
– Hòa thượng Mật Hiển đại diện cho Trúc Lâm có cho phép không?
Hòa thượng Mật Hiển:
– Vị pháp hy sinh ai lại dám cản.
Thế là một bức thư viết cho miền Nam và một tờ phát nguyện được ký tên vào.
Sau sự kiện này, Sư bà Diệu Không cùng người chị ruột của mình – Sư bà Diệu Huệ bay vào Sài Gòn để chuẩn bị tự thiêu. Tại Sài Gòn, Tăng Ni, Phật tử đều tán thán, cảm phục hành động của hai vị nữ tu này. Khi đang nghỉ ngơi tại chùa Từ Nghiêm, Sư bà được mời về chùa Ấn Quang và Hòa thượng Thích Thiện Hoa – Phó Chủ tịch Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo báo tin Hòa thượng Thích Quảng Đức sẽ thay Sư bà Diệu Không tự thiêu. Nhưng Ni trưởng vẫn quyết tâm thực hiện mong muốn của mình.
Ngày 11/6/1963, tại ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là Nguyễn Đình Chiểu và Cách Mạng Tháng 8), Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu. Nghe tin này, Bà không khỏi cảm động và viết một bài thơ Khóc Ngài Quảng Đức để bày tỏ tấm lòng của mình. Qua việc xin tự thiêu cũng như quyết tâm của Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không đã cho thấy niềm tin vững mạnh vào Phật pháp, đặc biệt là tinh thần vô ngã, chẳng màng đến thân thể.
Vì vậy, giữa lúc Phật giáo bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp, để bảo vệ Chánh pháp và trưởng dưỡng tín tâm của Tăng Ni, Phật tử thì cần có người phát đại nguyện của Bồ-tát hi sinh thân mình trong tinh thần từ bi, ôn hòa.
Sư bà Diệu Không nói riêng và các vị Tăng Ni, Phật tử nói chung tình nguyện hoặc tham gia tự thiêu đã thể hiện rõ lý tưởng Bồ-tát đạo, nhập thế một cách tối đa chỉ vì đạo pháp, vì dân tộc như những dòng hồi ký mà Ni trưởng đã ghi: “Vì sống dưới chế độ bất công, thiên vị nên chúng tôi muốn cúng dường thân này để kêu gọi lẽ phải của loài người trở lại với lương tri, đừng dùng thế lực mạnh mà đàn áp kẻ yếu”. Do đó, những sự kiện này là một biểu hiện rõ nét về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam. Ngoài ra, đây là thể hiện được cái dũng của người học Phật, trong đó có Ni trưởng, trên con đường tiến tu giải thoát.
Thứ hai, tham gia vào phong trào đấu tranh Phật giáo miền Nam năm 1963, cùng với nhiều vị Tăng Ni khác, Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không còn đứng bên cạnh và ủng hộ cho các hoạt động đấu tranh của Đoàn Sinh viên Phật tử của Đại học Huế.
Gắn bó với Đoàn Sinh viên Phật tử của Đại học Huế là các Hòa thượng: Thích Thiện Siêu, Thích Đôn Hậu, Thích Mật Hiển,… Các vị này đã định hướng các hoạt động của sinh viên theo phương pháp bất bạo động, tránh sự cố đáng tiếc xảy ra. Như một người mẹ, người chị, Sư bà Diệu Không gắn bó thường xuyên với họ để ủng hộ, tiếp tế, trợ lực về tinh thần trong lúc biểu tình, tuyệt thực gặp khó khăn và trở ngại.
Với tinh thần dũng cảm của mình, Ni trưởng đã trực tiếp ủng hộ, tiếp tục lăn xả với phong trào đấu tranh của Tăng Ni, Phật tử tại Huế mà không chút do dự, sợ hãi trước xe tăng, súng ống, dùi cui,… Sư bà xuất hiện như nguồn động viên to lớn, an ủi họ bước tiếp và sẵn sàng chia sẻ khó khăn. Đó là hạnh từ bi của một bậc chân tu.
Thứ ba, xuyên suốt phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam năm 1963, Sư bà Diệu Không lúc nào cũng thể hiện thái độ quyết liệt, mạnh mẽ với chính quyền Ngô Đình Diệm. Tiêu biểu nhất là việc Ni trưởng cùng Sư bà Diệu Huệ tổ chức họp báo từ bỏ Nguyễn Phúc Bửu Hội – con trai của Sư bà Diệu Huệ, đồng thời là người ủng hộ việc đàn áp Phật giáo của Ngô Đình Diệm. Ông Bửu Hội là nhà khoa học có uy tín quốc tế, từng tốt nghiệp tiến sĩ ở Pháp, được bổ nhiệm làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Liên Hiệp Quốc thời đó.
Trong lần tiếp xúc phái đoàn của Liên Hiệp Quốc tại chùa Từ Đàm Huế, Ni trưởng trả lời thẳng thắn:
“Hỏi:
– Nếu ông Bửu Hội đứng về phe ông Diệm. Các bà nghĩ sao?
Đáp:
– Thì chúng tôi sẽ từ nó, không nhận nó là con, là cháu trong gia đình chúng tôi nữa vì gia đình chúng tôi là Phật tử cả”.
Vốn có tính cách mạnh mẽ, nên Sư bà Diệu Không đã nói là làm.
Thứ tư, trong phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam năm 1963, trước những tình thế hiểm nghèo, trực tiếp đối diện với thế lực của chính quyền Ngô Đình Diệm, Sư bà Diệu Không vẫn giữ được phong thái tự tại, bình thản nhưng rất linh hoạt và khôn khéo làm cho đối phương phải nể phục.
Ngày 20-8-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu cho cảnh sát tấn công các chùa chiền và bắt giữ Tăng Ni, Phật tử tại các chùa ở Huế (Từ Đàm, Diệu Đế, Linh Quang,….) và Sài Gòn (Xá Lợi, Ấn Quang,…), trong đó có những vị lãnh đạo phong trào.
Lần này, không chỉ đối đầu với cảnh sát mà Sư bà còn trực tiếp tranh luận với Ngô Đình Cẩn – một nhân vật khét tiếng, ai cũng phải sợ ở miền Trung bấy giờ. Trong tình cảnh nguy hiểm như vậy, Ni trưởng vẫn giữ được bình tĩnh để đối mặt với tất cả và chúng đã không dám làm hại, thậm chí còn e dè kiêng nể. Có được như vậy chính là từ định lực của bậc chân tu, nhờ tín tâm vào sự hộ trì của Tam bảo. Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, định là: “Tâm chuyên chú vào một đối tượng, đạt đến tác dụng tinh thần không tán loạn hoặc chỉ cho trạng trái vắng lặng của tâm thức….”. Trong lục độ – sáu bước tiến tu giải thoát của người học Phật, thiền định là bước thứ năm và ai đạt điều này sẽ tiếp tục đi đến bước cuối cùng là trí huệ. Sư bà Diệu Không, tâm vốn an nhiên tự tại, đã chọn nơi nguy hiểm nhất, dễ tìm ra nhất trở thành nơi an toàn nhất cho mình. Đó là trí tuệ của người ngộ đạo.
Trong kinh Pháp Cú, đức Phật nói rõ: “Người nào thành tựu các giới hạnh, hằng ngày chẳng buông lung, an trụ trong chính trí và giải thoát, thì ác ma không thể dòm ngó được”. Một lần nữa, trong cuộc đấu tranh của Tăng Ni, Phật tử Huế vào năm 1966, Sư bà Diệu Không đã thể hiện sự thông minh, bản lĩnh hiếm có để bảo vệ Sư cô Thích Nữ Trí Hải – một đệ tử xuất sắc của mình. Khi Nguyễn Ngọc Loan – Tổng Giám đốc Cảnh sát quốc gia của chính quyền Sài Gòn tuyên bố ra Huế y sẽ bắt hiếp Sư cô Trí Hải – người phiên dịch tiếng Anh của nhà sư Thích Trí Quang, trước mặt cho mọi người biết tay. Biết thế nên Sư bà Diệu Không đã gửi Sư cô Trí Hải vào nhà một người Phật tử bà con của Nguyễn Ngọc Loan, nên khi Nguyễn Ngọc Loan ra Huế không tìm được Sư cô Trí Hải để gây tội ác.
Cũng vì thế, nhà sử học Chương Thâu đã có nhận định sâu sắc về phong cách của Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không như sau: “Cái hay nhất trong cách sống của Diệu Không là bình dị, chất phác, chân thành mà thu được kết quả. Kẻ địch tàn bạo, Diệu Không không làm gì cả, chỉ xử sự một cách bình thường, vậy mà Ni sư vẫn thu được thắng lợi vẻ vang, vẫn hoàn thành được việc “cứu nhân độ thế””.
Hương xưa nay vẫn còn
Trong quyển Hồi ký Đường thiền sen nở, Sư bà Diệu Không hồi tưởng lại phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam năm 1963: “Nhớ lại cuộc đấu tranh mà rùng mình, nào là lưỡi lê, dùi cui đập lên đầu người. Các vị Tăng, Ni bị ngã gục, nhịn đói, tù tội vẫn hi sinh không nao núng tiến bước đi lên”[18]. Trong cơn cuồng phong bão táp của chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra khi ấy, Ni trưởng vẫn hiên ngang, không hề nao núng như thạch trụ tùng lâm vững chắc bảo vệ Phật pháp, sát cánh cùng Tăng Ni, Phật tử và đồng bào vượt qua nhiều chông gai, nguy hiểm. Làm được như vậy, phải chăng là nhờ Sư bà Diệu Không có được tài sản bi, trí, dũng của người học Phật?
Như cánh chim nhạn bay giữa lưng trời chẳng mong để lại dấu vết, càng nói nhiều, càng ca ngợi về Sư bà Diệu Không là càng không hiểu và ngược lại với phẩm chất thanh cao, giản dị của một vị Ni trưởng vốn khiêm cung, giản dị. Nhưng, trong kinh Pháp Cú, đức Phật đã dạy rằng: “Hương của các loài hoa chiên đàn, đa già la hay mạt lị đều không thể bay ngược gió, chỉ có mùi hương đức hạnh của người chân chính, tuy ngược gió vẫn bay khắp muôn phương”.
Thanh Tâm (Tổng hợp)