Hòa thượng Thích Thanh Từ giảng
Đề tài tôi nói hôm nay là Tâm hạnh người tu. Đây là tôi muốn nhắm vào Tăng Ni tâm hạnh người tu như thế nào ? Mục đích của chúng ta khi đi tu, cốt làm sao lợi ích cho mình, cho người, chớ không ai nghĩ rằng mình đi tu để làm trò cười cho nhân thế. Thế nên muốn trở thành người tu đứng đắn lợi mình, lợi người, thì cần phải hiểu rõ tâm hạnh của mình.
Tâm là chỉ nội tâm, hạnh là chỉ hành động của thân; nội tâm và hoạt động của bản thân phải làm sao cho xứng đáng tư cách một người tu, để không hổ thẹn là đệ tử Phật. Nói đến tâm hạnh người tu, tôi không có dạy gì riêng mà chỉ dẫn những việc làm và những lời dạy của chư Tổ, của các vị Thiền sư để quí vị nhớ ứng dụng.
Đầu tiên tôi kể lại câu chuyện của ngài Ca-diếp, vị Tổ thứ nhất trong Thiền tông và cũng là một vị đệ tử lớn của đức Phật. Trong Thiền tông thường hay kể rằng ngài Ca-diếp được đức Phật truyền tâm ấn ba lần, nhưng chúng ta phần nhiều chỉ thấy có một lần. Hình ảnh thường được nhắc đến là trong hội Linh Sơn, khi đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên, ngài Ca-diếp nhìn thấy mỉm cười, đức Phật mới truyền tâm ấn. Đó là điểm nổi bật, còn những hội khác thì chúng ta ít nhớ, ít biết.
Nay tôi kể lại câu chuyện ngài Ca-diếp đến yết kiến Phật tại tháp Đa Hòa. Một hôm đức Phật đang thuyết pháp cho một số thầy Tỳ-kheo nghe tại tháp Đa Hòa, ngài Ca-diếp từ xa về yết kiến Phật. Ngài tu theo hạnh đầu-đà nên mặc y phấn tảo – y do giẻ rách kết thành – và râu tóc xồm xoàm, hình tướng vừa dơ vừa xấu xí, nên các Tỳ-kheo có ý khinh bỉ ngài. Đức Phật biết được tâm niệm chúng Tỳ-kheo, nên gọi: “Này Ca-diếp! Đến đây, ta nhường cho ông nửa tòa ngồi.” Phật lại bảo tiếp: “Này các Tỳ-kheo! Ta có tam minh lục thông, thì Ca-diếp cũng có như ta vậy…” Phật kể tất cả những pháp mà Phật có và kết luận: “Ca-diếp cũng có như ta vậy, vì thế ta mời Ca-diếp đến đây nhường nửa tòa cho ngồi.” Khi ấy ngài Ca-diếp quì trước đức Phật, Ngài bạch: “Bạch đức Thế Tôn, con là đệ tử, Thế Tôn là thầy, con không dám đến, xin Thế Tôn cho con được phép ngồi đây.”
Câu chuyện trên trích từ kinh A-hàm, trong hội đó đức Phật nhắm phá tâm ngã mạn của chúng Tỳ-kheo, nhưng trong nhà Thiền thì thấy đức Phật đã ca tụng ngài Ca-diếp đầy đủ những pháp mà đức Phật có và xứng đáng được đức Phật nhường nửa tòa ngồi, như vậy không phải truyền tâm ấn là gì ? Đó là lần truyền tâm ấn thứ hai.
Lần thứ ba ở đâu ? Đó là khi đức Phật tịch, ngài Ca-diếp từ xa hay tin vội tìm về, đến nơi thì nhục thân đức Phật đã được tôn trí vào kim quan. Ngài Ca-diếp đến phía sau kim quan đảnh lễ, đức Phật duỗi chân ra, ngài Ca-diếp rờ chân Phật. Đó là chỗ thông cảm giữa thầy trò và sự thông cảm đó là truyền tâm ấn. Vì vậy nên các Thiền sư sau này theo thuật đó.
Như Thiền sư Thanh Nguyên ở Trung Hoa, Ngài sai đệ tử là Thạch Đầu Hy Thiên đem thơ cho ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng. Khi trở về ngài Thạch Đầu thưa: “Hòa thượng bảo con đem thơ xong, Hòa thượng sẽ cho con chiếc búa ở núi, xin Hòa thượng cho chiếc búa.” Ngài Thanh Nguyên duỗi một chân thẳng ra, ngài Thạch Đầu đảnh lễ, rồi về ở núi.
Ở Việt Nam, ngài Pháp Loa Tổ thứ hai trong Tam tổ Trúc Lâm, bệnh sắp tịch, ngài Huyền Quang đến hầu. Hai thầy trò vấn đáp xong, cuối cùng ngài Pháp Loa duỗi chân ra. Những người viết sử sau này không biết nói ngài Pháp Loa giận đá một cái, đó là điều lầm lẫn của những người không hiểu ý nghĩa Thiền, Ngài duỗi chân ra là Ngài chấp nhận ngài Huyền Quang đã thông cảm với Ngài, đó là một hình thức truyền tâm ấn. Hiểu như vậy chúng ta mới không lấy làm lạ. Một vị Tổ khi sắp tịch, giận đệ tử Ngài đá, thật hết sức vô lý. Hiểu chỗ này chúng ta mới thông cảm được đường lối truyền thừa của Thiền tông.
Câu chuyện ngài Ca-diếp mỉm cười khi đức Phật đưa cành hoa sen lên, có ý nghĩa gì ? Về điểm này, tôi nhắc lại Thiền sư Phong Huyệt đời Tống, sau khi kiểm điểm sự tu hành của chúng, Ngài chưa được hài lòng nên khóc. Niệm Pháp Hoa mới hỏi: “Tại sao Hòa thượng khóc ?” Ngài Phong Huyệt nói: “Tông Lâm Tế đến ta e phải chìm mất, trong chúng đây không có người nào kế thừa được ta, ta buồn khóc.” Tỉnh Niệm thưa: “Hòa thượng thấy con thế nào ?” Ngài Phong Huyệt nói: “Ngươi thì được, nhưng ngươi còn mê tụng Pháp Hoa quá.” Tỉnh Niệm thưa: “Việc đó không khó, Hòa thượng chỉ cho con biết yếu chỉ thì con sẽ buông.” Ngài Phong Huyệt hứa: “Như vậy sáng mai khi lên tòa, ta sẽ chỉ cho ngươi.” Khi ngài Phong Huyệt lên tòa, thuật lại việc đức Thế Tôn trong hội Linh Sơn, cầm cành hoa đưa lên rồi lấy mắt trong như hoa sen nhìn chúng, ngài Ca-diếp nhìn thấy liền mỉm cười, khi đó Tỉnh Niệm đứng dậy phủi áo đi, ngài Phong Huyệt cũng quăng gậy xuống tòa.
Ở Việt Nam đời Lê, Thiền sư Chân Nguyên đã làm mấy bài kệ nói về việc này. Bài thứ nhất là kệ “Giơ Cánh Hoa Lòng”, chữ lòng là dịch chữ Tâm.
Nhân duyên to lớn Phật ra đời,
Ca-diếp ấn truyền ngộ được thôi.
Cầm hoa cười mỉm còn nguyên đó.
Lá đẹp hương bay khắp đất trời.
Kinh Pháp Hoa nói đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, là chỉ cho chúng sanh Tri kiến Phật. Như vậy trong hội Linh Sơn chỉ ngài Ca-diếp là người được ấn truyền và được ngộ đạo ngay trong hội đó. Ấn truyền bằng cái gì ? “Cầm hoa cười mỉm còn nguyên đó.” Đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên, ngài Ca-diếp nhìn thấy chúm chím cười, là truyền ở chỗ đó, và từ đấy về sau “Lá đẹp hương bay khắp đất trời.” Lá sen và hương sen bay khắp đất trời, từ Ấn Độ sang Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam…
Bài kệ thứ hai là “Mật Trao Đèn Lòng” tức thầm trao đèn tâm.
Một điểm đèn lòng mắt Phật sinh,
Tương truyền bốn mắt đối phân minh.
Nối hương tiếp lửa luôn luôn sáng,
Gieo khắp rừng thiền gởi hữu tình.
Một điểm đèn lòng mắt Phật sinh, là ngọn đèn tâm sáng, trao được tâm ấy là từ mắt Phật. Phật đưa mắt như hoa sen nhìn chúng, ngài Ca-diếp nhìn lên, giữa Phật và Ngài cảm thông được nhau, nên Phật mới truyền tâm ấn, vì thế nói “Tương truyền bốn mắt đối phân minh”. Lối truyền này còn gọi là “Tứ mục tương cố”, nghĩa là bốn mắt nhìn nhau, đó là chỗ ngộ đạo. “Nối hương tiếp lửa luôn luôn sáng”, từ đấy về sau ngọn đèn đó nối tiếp sáng mãi không cùng. “Gieo khắp rừng thiền gởi hữu tình” nghĩa là gieo khắp trong rừng thiền và gởi tất cả chúng hữu tình ngọn đèn từ mắt Phật sanh ra. Thế nên trong nhà Thiền khi nói chuyện với nhau, các Thiền sư hay nhìn thẳng, thử xem người đệ tử thấu được điều mình muốn nói không.
Tổ Đạt-ma nói chuyện với ngài Huệ Khả, Huệ Khả thưa: “Xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.” Tổ Đạt-ma nhìn thẳng vào mặt Ngài bảo: “Đem tâm ra ta an cho.” Huệ Khả bối rối thưa: “Con tìm tâm không được”, Tổ Đạt-ma nói: “Ta an tâm cho ngươi rồi!” Như vậy, chính cái nhìn là điều quan trọng. Hiểu như thế mới thấy lối truyền thừa của Thiền tông phần nhiều hay dùng cái thấy, cái nghe.
Trở lại câu chuyện của ngài Ca-diếp để phù hợp với đề mục tôi đã nêu về tâm hạnh người tu. Tâm hạnh của ngài Ca-diếp như thế nào ? Về hạnh thì Ngài tu hạnh đầu-đà, tức là khổ hạnh, nhọc nhằn, thiếu thốn… còn tâm Ngài thì Phật có cái gì Ngài cũng có cái ấy, tức là những gì Phật truyền cho Ngài, Ngài đều thừa hưởng hết. Vì vậy mới gọi Ngài là vị Tổ thứ nhất kế thừa Phật.
Vậy chúng ta phải như thế nào ? Về thân chúng ta phải nghèo, phải thiếu, nhưng về tâm chúng ta phải giàu, phải có hòn ngọc quí, chớ không thể người tu mà thân thì sang trọng còn trong lòng thì rỗng tuếch, như vậy là không hợp đạo lý, không xứng đáng tư cách người tu.
Đây là lời răn nhắc cũng là lời tự thuật của ngài Vĩnh Gia. Cùng Thích tử, khẩu xưng bần, người Thích tử là kẻ nghèo, luôn luôn thấy mình nghèo, miệng tự xưng nghèo, xưng bần đạo hay bần tăng, nhưng bần đó là bần cái gì ? Thật thị thân bần đạo bất bần, Bần tức thân thường phi lũ hạt, đạo tắc tâm tàng vô giá trân. Về thân thì mặc áo vá, nhưng về đạo thì chẳng nghèo. Trong tâm chứa được hạt châu vô giá. Như thế Ngài chỉ cho chúng ta thấy rõ bổn phận của người tu. Đến đây tôi nhắc lại chữ Tỳ-kheo dịch nghĩa chánh là khất sĩ, khất là ăn mày, khất sĩ là kẻ ăn mày. Kẻ ăn mày làm sao giàu được, nên mới nói “cùng Thích tử, khẩu xưng bần”. Như vậy đứng về thân, chúng ta phải nghèo, mặc áo vá, nhưng tâm có hạt châu vô giá. Ngài còn dặn thêm:
Tòng tha báng, nhậm tha phi,
Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì,
Ngã văn kháp tợ ẩm cam lộ,
Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì.
Người ta chê hay phỉ báng, chúng ta cứ xem như họ cầm lửa đốt trời, hay nói cách khác là cầm lửa đốt hư không. Cầm lửa đốt hư không thì chừng nào cháy hư không ? Chỉ một lúc rồi tự thấy nhọc và có thể cháy tới tay nữa. Như vậy là người tu, dầu cho bị người chê bai, phỉ báng, tâm chúng ta không dính mắc, rỗng rang tự tại thì chẳng khác nào người kia cầm lửa đốt hư không vậy. Trái lại, nếu tâm mình có dính mắc tức là có bổi thì lửa dễ cháy. Họ mắng mình, lúc đó trong lòng họ có ấm ấm chưa? Tức là có nổi lửa rồi; mình nổi sân lại, họ vừa có lửa nhúm lên, gặp bổi của mình, hai cái phát cháy. Còn nếu họ nhen lửa đưa vào hư không thì bao giờ hư không cháy ? Thế nên nếu thật tâm người tu chúng ta rỗng rang tự tại thì mặc tình họ khen chê, mặc tình họ phỉ báng chúng ta vẫn rỗng rang tự tại, người chê bai phỉ báng đó chẳng khác nào kẻ cầm lửa đốt hư không và tự họ khổ. “Ngã văn kháp tợ ẩm cam lộ”, ta nghe giống như uống nước cam lồ. “Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì”, nó đều tiêu dung vào chỗ không thể nghĩ bàn.
Nếu chúng ta tu được như vậy thì thật là đẹp biết mấy. Người tu khi bị chê, bị khinh miệt, tâm vẫn rỗng rang tự tại, nghe những lời chê bai đó giống như uống nước cam lồ, mát rượi ngọt ngào, tất cả lời chê bai khinh bỉ đều tiêu dung vào chỗ không thể nghĩ bàn, đó mới đúng là người tu chân chánh.
Nếu người tu nghe chê mà nổi giận, la lối thì chưa đúng là người tu. Vậy quí vị tự kiểm lại xem mình xứng đáng là người tu chưa, nếu chưa thì ráng nỗ lực.
Quán ác ngôn thị công đức,
Thử tắc thành ngô thiện tri thức,
Bất nhân san báng khởi oan thân,
Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực ?
Ngài bảo chúng ta phải quán xét lời nói ác là công đức. Tại sao ? Nếu chúng ta thấy những lời nói ác của người là công đức thì họ trở thành thiện tri thức của ta. Vì sao ? Vì người mắng chửi, nhưng tâm mình vẫn an nhiên tự tại, thì lời mắng chửi đó là một thử thách để lường xem đạo lực mình đến đâu. Nếu đạo lực đã vượt qua được điều đó, là mình đã thắng được cái sân, thắng được sân là đã thành công trên đường đạo. Như vậy chính lời mắng chửi là bằng chứng để nghiệm xem đạo đức của mình; và nếu đó là sự thử thách đạo lực của mình thì người mắng đâu không phải là thiện tri thức. Nếu không nhân lời chê bai mắng nhiếc mình khởi lên oán hay thân thì đâu có đủ tiêu biểu cho sức vô sanh từ nhẫn. Chúng ta là người tu thì lòng từ bi đức nhẫn nhục tiêu biểu cho đạo lực, cho sức tu hành của mình. Nếu trước mọi cảnh trái nghịch mà tâm không dấy khởi đó gọi là vô sanh từ nhẫn lực. Thế nên nói đến người tu là nói đến người chiến thắng lòng mình, chớ không phải chiến thắng kẻ bên ngoài. Nếu trước những khó khăn, những nhục nhã mình chống đối lại đối tượng bên ngoài thì đó chưa phải là tư cách của người tu. Trái lại những đối tượng xấu đến, tâm mình vẫn an nhiên tự tại thì đó là tiêu biểu cho sức từ nhẫn vô sanh, tư cách người tu là phải như thế. Nếu chúng ta nói rằng mình tu được nhiều thời khóa, nhưng gặp cảnh vẫn sân si thì thời khóa đó trở thành vô nghĩa.
Lại Thiền sư Chân Nguyên cũng nhắc chúng ta tương tự như thế. Tôi trích một đoạn trong bài “Thiền Tịch Phú”:
Sãi chưng nay,
Mộ đạo tu hành,
Xả đường kinh lịch.
Chí dốc nên Phật Tổ siêu thăng,
Lòng nguyện độ chúng sanh trầm nịch.
Đêm đông trường khi mật niệm, gióng tiếng chuông thánh thót lênh kênh,
Ngày hạ tiết lúc tụng kinh, nện dùi mõ khoan mau lịch kịch;
Chỉn chuộng một bề đạo đức, miệng chẳng hiềm ăn đắng ăn cay.
Vốn yêu hai chữ từ bi, thân nào quản mặc lành mặc rách …
Trong bài phú Ngài tự xưng là Sãi. “Sãi chưng nay mộ đạo tu hành”, hôm nay sãi này vì lòng mộ đạo tu hành. “Xả đường kinh lịch” tức là xả bỏ hết những việc trải qua trước kia. “Chí dốc nên Phật Tổ siêu thăng” sự lập chí của Ngài là dốc làm Phật làm Tổ để siêu thăng giải thoát, đó là đứng về thượng cầu. Còn về hạ hóa thì “Lòng nguyện độ chúng sanh trầm nịch”,lòng nguyện độ những chúng sanh đang chìm đắm trong sông mê bể khổ. Như vậy hai câu trên nói lên ý chí và lòng từ bi của người xuất gia, ý chí thì quyết định tu để thành Phật, thành Tổ, còn lòng từ bi thì tu để cứu độ chúng sanh đang chìm trong sông mê bể khổ. Đã có chí nguyện và lòng từ như vậy thì hằng ngày làm việc gì ? “Đêm đông trường khi mật niệm, gióng tiếng chuông thánh thót lênh kênh”, nghĩa là đêm đông khuya lạnh thức dậy vừa mật niệm vừa đánh chuông. “Ngày hạ tiết lúc tụng kinh, nện dùi mõ khoan mau lịch kịch”, nghĩa là mùa hè trong lúc tụng kinh đánh mõ cộp cộp, đó là diễn tả bổn phận của người tu. Ngài lại giải thích tại sao mình phải chịu ăn chay ăn lạt, kham khổ. “Chỉn chuộng một bề đạo đức, miệng chẳng hiềm ăn đắng ăn cay”, vì chuộng quí đạo đức nên chẳng hiềm ăn món đắng, món cay, không chuộng thức ngon, không đòi thức quí. “Vốn yêu hai chữ từ bi, thân nào quản mặc lành mặc rách” bởi yêu hai chữ từ bi nên mặc lành rách đều được, không vì lý do mặc rách mà buồn tủi. Người xưa luôn luôn nhắc nhở chúng ta đã đi tu thì quyết làm Phật làm Tổ, chớ không phải đi tu để rồi hết ngày hết tháng, hết cả cuộc đời! Trên thì mình quyết định tiến đến thành Phật, thành Tổ, nhưng thành Phật, thành Tổ để làm gì ? Để cứu độ chúng sanh đang trầm luân trong bể khổ. Đã có tinh thần đó thì tất cả những chuyện ăn mặc phải đơn sơ đạm bạc, như vậy mới hợp đạo đức, mới hợp với tinh thần giải thoát cao cả của chúng ta.
Thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển ở Trung Hoa, nhắc chúng ta cái quí của mình. Trên đường tu, có nhiều người khi tu thì quyết chí, nhưng đạo lý không thâm nhập được, nên tuy nói tu mà chỉ chạy tìm cầu bên ngoài, quên cái chân thật bên trong của mình. Tôi trích một đoạn trong bài “Thể Châu Ca” của Ngài:
Bần tử y trung châu,
Bản tự viên minh hảo,
Bất hội tự tầm cầu,
Khước sổ tha trân bảo.
Sổ tha bảo, chung vô ích,
Chỉ thị giáo quân không phí lực,
Tranh như nhận thủ tự gia trân,
Giá trị huỳnh kim thiên vạn ức.
Dịch:
Kẻ nghèo áo có châu,
Vốn tự tròn sáng đẹp,
Chẳng biết tự tìm cầu,
Bèn vì người đếm báu.
Đếm báu người trọn vô ích,
Chỉ là khiến anh luống nhọc sức,
Đâu bằng nhận lấy của báu nhà,
Giá trị vàng ròng ngàn muôn ức…
“Bần tử y trung châu” là kẻ nghèo nhưng trong áo có hạt châu. Đó là ý “Hệ Châu” trong kinh Pháp Hoa. “Bản tự viên minh hảo”, hạt châu đó vốn tròn sáng đẹp. “Bất hội tự tầm cầu, khước sổ tha trân bảo” chẳng biết tự tìm cầu, trở lại đếm báu cho người, nghĩa là sẵn có hạt châu quí trong áo mà không chịu tìm, lấy ra xài, trái lại đi đếm của báu cho người, đó là điều lầm lẫn. Đếm của báu cho người là gì ? Tức là khi chúng ta tu mà không nhận rõ bản tâm mình, cứ nghĩ đến chuyện cầu Phật ở bên ngoài hay tụng kinh cho có phước nhiều v.v… đó chẳng khác nào đếm của báu cho người. Kinh Phật chủ yếu dạy chúng ta thấy rõ được cái chân thật nơi mình, như trong kinh thường dụ kinh là ngón tay chỉ mặt trăng, nhưng chúng ta lại không chịu nhận, cứ cho kinh là cứu kính, chẳng khác nào người đếm của báu cho kẻ khác. “Sổ tha bảo, chung vô ích” nếu cứ đếm của báu cho người thì trọn không có ích gì! “Chỉ thị giáo quân không phí lực” chỉ là khiến anh luống nhọc sức. “Tranh như nhận thủ tự gia trân”, đâu bằng nhận lấy hạt châu quí của chính nhà mình. “Giá trị huỳnh kim thiên vạn ức”, hạt châu quí đó có giá trị ngàn vạn ức lượng vàng ròng. Như vậy ý Ngài chỉ cho chúng ta thấy rõ người tu cốt làm sao nhận nơi mình có hạt châu quí, tìm cho được, đó mới là giá trị trên tất cả.
Nếu chúng ta quên nó để đi tìm cái gì khác, thì thật là uổng cho một đời tu. Tuy nhiên, Ngài chỉ cho chúng ta hạt châu quí nhưng nó còn nằm trong áo, chớ chưa phải nắm được trong tay. Đã là nằm trong áo, nếu chịu khó vạch, chịu khó mở thì sẽ được. Tóm lại, Ngài chỉ cho chúng ta biết chúng ta là kẻ nghèo, tuy nghèo nhưng trong áo có hạt châu quí chớ không phải kẻ nghèo hoàn toàn không có gì. Như vậy tất cả Thiền sư nhìn chúng ta đều thấy giống nhau, tức là tuy nghèo mà ai cũng có hạt châu quí, chớ không phải nghèo một cách tuyệt đối không có gì cả.
Thiền sư Sở Thạch đời Thanh, cũng nhắc tương tự nhưng có những điểm hơi khác hơn là vì chúng ta đa sự nên luôn luôn lầm lẫn không thấy được của báu chính mình:
Thị chư Thiền nhân
Đô duyên ngụy khước tự gia tâm,
Chỉ quản mang mang hướng ngoại tầm,
Bất thức thể kê hô tác phượng,
Hoàn tương huỳnh diệp nhận vi câm.
Cầu sư bạt thiệp sơn xuyên viễn,
Trục cảnh nhân tuần tuế nguyệt thâm.
Hữu vấn khước tu hướng y đạo:
Thùy gia thất lý một Quan Âm ?
Dịch:
Dạy các thiền nhân
Duyên nhiều quên hết tự gia tâm,
Chỉ nhắm xa xôi bên ngoài tầm
Chẳng biết gà bông mà gọi phụng,
Lại đem lá úa nhận là vàng.
Cầu thầy vượt núi trèo non khắp,
Theo cảnh trôi qua năm tháng thâm,
Có hỏi cần nên đến y đáp:
Nhà ai trong ấy chẳng Quan Âm ?
“Đô duyên ngụy khước tự gia tâm”, đô duyên là nhiều duyên, nhiều duyên quá thì “ngụy khước tự gia tâm”, là quên mất tâm của nhà mình. Bởi vì nhiều duyên bên ngoài quá nên quên mất tâm của chính mình. “Chỉ quản mang mang hướng ngoại tầm”, chỉ một bề mờ mờ chạy ra ngoài tìm kiếm. Nay nghe nói Phật ở chỗ kia linh liền tới lễ bái, mai nghe nói vị sư ở nơi khác có cái gì lạ, lại chạy tới tìm cầu, chớ không biết nhận ngay tâm mình. “Bất thức thể kê hô tác phượng”, không biết những con gà bông, những con gà đốm mà gọi là chim phượng. Đó là vì học đạo mà không biết được gốc nguồn, chỉ chạy ra ngoài tìm kiếm, nên chẳng khác người thấy con gà bông đẹp tưởng lầm là chim phượng. “Hoàn tương huỳnh diệp nhận vi câm”, lại đem lá vàng nhận cho là vàng, đây là trích dẫn trong kinh. Phật bảo: “Tất cả những gì Phật dạy cho các Tỳ-kheo, như là nắm lá vàng để dỗ con nít khóc”, ý nói rằng bà mẹ đi chợ, đứa con khóc đòi theo, bà mẹ không cho nó đi nhưng muốn dỗ nó nín, mới cầm một lá vàng trong tay nói: “Đây mẹ cho con vàng, con đừng khóc nữa”, đứa nhỏ thấy tưởng là vàng thật nên nín khóc, nhưng mở tay ra thì chỉ là chiếc lá thôi. Tất cả những gì Phật dạy là những phương tiện để chỉ cái chân thật cho chúng ta, nhưng những phương tiện đó chúng ta lại tưởng là thật thì chẳng khác nào thấy lá vàng mà tưởng là vàng, đó là điều lầm lẫn. “Cầu sư bạt thiệp sơn xuyên viễn” nghĩa là chúng ta hướng ra ngoài nên nay chạy xứ này, mai chạy xứ kia tìm thầy, đi qua sông qua núi xa xôi, rốt cuộc rồi không đến đâu. “Trục cảnh nhân tuần tuế nguyệt thâm” là chạy theo cảnh theo người mà mất hết thời gian. “Hữu vấn khước tu hướng y đạo”, nếu người đó có hỏi thì nên nói với y rằng: “Thùy gia thất lý một Quan Âm”, nhà ai trong ấy chẳng Quan Âm ? Trong nhà nào cũng có đức Quan Âm. Nhà đó là nhà tứ đại. Nhà tứ đại ngũ uẩn nào cũng có đức Quan Âm cả.
Qua bài này, Ngài chủ ý dạy chúng ta muốn tu, đầu tiên phải bớt duyên, mới có thể nhận ra bản tâm mình. Nếu nhiều duyên quá thì quên mất bản tâm. Quên bản tâm thì học đạo, cầu đạo chỉ một bề hướng ra ngoài tìm kiếm, như thế là lầm lẫn chẳng khác nào cho gà bông là chim phượng hay lá vàng là vàng thật vậy. Đã hướng ra ngoài tìm thì nghe đây nghe kia chạy tìm thầy, tìm người, rốt cuộc hết ngày, hết tháng, vẫn không thấy được cái chân thật. Thế nên với người đó phải nhắc họ rằng nhà nào cũng có Phật, đừng đi tìm ở đâu xa, đừng lang thang núi này núi nọ để tìm cầu, ngay trong nhà mình đã có đức Quan Âm rồi, nếu cứ tìm Quan Âm ở Phổ Đà Sơn hay ở núi nào khác thì quá xa. Như vậy người học đạo phải biết đạo không ở bên ngoài mà chính là cái sẵn có nơi chúng ta, phải thức tỉnh xoay trở lại chớ không dong ruổi tìm cầu bên ngoài mà được. Đó là những lời của người xưa nhắc nhở, là chỗ thiết yếu, nếu chúng ta cứ một bề dong ruổi theo bên ngoài, dù cho hết một đời cũng không bao giờ thấy đạo.
Sau cùng là một bài kệ trích trong “Cư Trần Lạc Đạo” của Sơ tổ Trúc Lâm, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch:
Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền,
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, cư là ở, trần là bụi bặm, lạc đạo là vui với đạo. Ở trong cảnh trần mà vui với đạo thì phải thế nào ? Hãy tùy duyên. Tùy duyên bằng cách nào ? Cơ tắc xan hề khốn tắc miên là đói thì ăn, mệt thì ngủ. Tùy duyên là như thế. Tại sao ? Bởi vì nếu chúng ta biết đạo thì đạo không phải là những gì xa xôi kỳ lạ, mà chính là cái chân thật sẵn có nơi mình, như chúng ta thấy qua lối truyền tâm của Phật cho Tổ Ca-diếp thì ngay trong cái thấy đã có đạo rồi. Nhận được đạo ngay đó thì tùy duyên đói ăn, mệt ngủ, chớ không thêm sự suy tính nghĩ lo gì nữa. Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, là ngay trong nhà mình có hòn ngọc báu, đừng chạy tìm bên ngoài. Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền – câu cuối này tôi thích nhất – mắt thấy cảnh, tai nghe tiếng nhưng tâm mình không dính mắc vào cảnh, vào tiếng thì khi ấy đừng hỏi thiền làm gì ? Vì đó là thiền rồi, đừng nghĩ rằng thiền là cái gì xa xôi kỳ lạ. Chúng ta từ trước đến nay cứ nghĩ thiền là phải làm sao ngồi cho tỏa hào quang, chớ không ngờ ngay nơi cảnh mà không dính mắc là thiền rồi và cũng chính khi ấy hạt châu của mình hiển lộ. Thế nên tu không phải là những dụng công nhọc nhằn, những cố gắng khổ sở, mà chính là cái khéo léo làm sao ở trong cõi đời điên đảo, tâm mình vẫn an lạc. Nếu tâm an lạc thì cảnh nào đến, chúng ta tùy đó ứng dụng chớ không đòi hỏi, không tìm kiếm.
Tóm lại, khi đối cảnh tâm không dính mắc đó là chúng ta đã tu Thiền và cũng chính đó là hạt châu, là tâm mình hiện bày. Như vậy là hiểu đạo, là học đạo chớ đừng nghĩ rằng phải tìm cái gì xa xôi ở trên trời hay ngoài biển. Đạo chính là cái sẵn có nơi mình.
Trên tôi đã dẫn các vị Thiền sư từ Trung Hoa đến Việt Nam để nhắc nhở quí vị nhớ ứng dụng, nhưng câu chuyện mà tôi hằng nhớ, hằng nhắc nhiều nhất là chuyện Thiền sư Đạo Giai ở Phù Dung. Ngài tu hành đức hạnh cao nên được quan địa phương tâu về triều đình. Triều đình nhà Tống quí các vị đạo đức, nên nhà vua mới phong tước hiệu và ban tử y cho Ngài. Khi viên quan địa phương đem sắc lịnh phong tước hiệu và ban tử y đến, Ngài từ chối không nhận. Việc này được tâu lên triều đình, nhà vua ra lệnh bắt điều tra và đánh. Quan địa phương thấy một người tu đức hạnh mà bị đánh đập thì không nỡ, nhưng lịnh trên không dám trái, nên mời Ngài đến, viên quan nói: “Theo luật, người bệnh thì không bị điều tra, nay thấy Hòa thượng thân thể gầy ốm, có lẽ Hòa thượng bệnh chăng ?” Nếu chúng ta, khi ấy nói thế nào ? – “Chúng tôi bệnh vô kể v.v…” Tư cách của chúng ta hiện nay chắc là như vậy, nhưng ngài Đạo Giai thì không. Ngài nói: “Bần đạo thân tuy ốm, nhưng hiện nay không có bệnh.” Không có bệnh thì phải bị đánh, bị điều tra. Quí vị thấy người xưa thà chịu bị đánh, nhưng không nói dối, còn chúng ta hiện nay nhiều chuyện chưa quan trọng gì cả, đã nói dối trước rồi. Nghĩa là khi hỏi đến điều gì hơi mất giá trị, có thể tráo trở để cho giá trị mình được tăng, chớ không cho giảm. Như vậy để thấy tâm niệm tu hành của chúng ta còn non yếu, không cứng cỏi như người xưa. Đạo là chỗ chân thật, như trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói “trực tâm thị đạo tràng”, nghĩa là tâm ngay thẳng là đạo tràng. Tâm chúng ta hiện nay quanh co, làm sao lập đạo tràng được! Vì thế người tu phải gan, dám nói những lời chân thật, dù có những điều khổ đến với mình cũng không sợ, huống là những lời thật chỉ mất giá trị một ít thì sợ làm gì. Như vậy mới giữ cho giá trị đạo đức không mất, không tiêu hao. Chúng ta phải gìn thân, gìn khẩu cho xứng đáng là người tu. Thân phải nghèo, ăn đạm bạc, mặc rách rưới, ngôn ngữ thật thà, như vậy mới hợp với người tu. Nếu tu mà không thật thà cũng không được, sang quá cũng không được, ăn ngon quá cũng không được. Đó là những điều chúng ta phải nhớ.
Ngài Phù Dung nói: “Ngộ thinh, ngộ sắc như thạch thượng tài hoa; kiến lợi, kiến danh như nhãn trung trước tiết” nghĩa là “Gặp thanh gặp sắc như hoa trồng trên đá; thấy lợi, thấy danh như bụi rơi trong mắt.” Chúng ta được như thế chưa ? Ngài nói để nhắc chúng ta thấy sắc đẹp, nghe âm thanh hay mà vẫn như hoa trồng trên đá. Hoa trồng trên đá không ra rễ nổi, nghĩa là không dính dáng gì tới mình hết. Còn thấy lợi thấy danh cũng như bụi rớt trong con mắt, xốn lắm! Chúng ta hiện nay con mắt mờ mờ, thấy lợi thấy danh thì sáng lên, chớ không phải như bụi rớt. Đó là tôi nhắc để tất cả quí vị thấy rõ trên đường tu, chúng ta phải đủ những tư cách như vầy:
– Một là phải biết rằng chúng ta là kẻ bần tăng, là người nghèo, chớ không phải người giàu. Đã là người nghèo thì phải xử sự đúng tinh thần của người nghèo.
– Hai là chúng ta phải chấp nhận mọi sự khen chê, chúng ta đều thấy như uống nước cam lồ, chớ không phải thấy là cái khó, cái khổ.
– Ba là sự sống của chúng ta rất đạm bạc, ăn uống đơn sơ, mặc cũng đơn sơ.
– Bốn là dù gặp những trường hợp làm cho chúng ta bị mất chút ít uy tín, nhưng cần nói thẳng, nói thật, thì chúng ta cũng chấp nhận, chớ đừng dối trá làm mất tâm đạo đức của mình.
– Năm là ngay nơi chúng ta đã có hòn ngọc quí không phải tìm cầu ở đâu nữa. Chỉ cần khéo nhận ra để sử dụng.
– Sáu là Thiền không phải cái gì khác lạ mà chính là chỗ đối cảnh vô tâm. “Đối cảnh vô tâm” tức là Thiền chớ không phải cầu kiếm cái gì lạ nữa hết.